Để tìm hiểu rõ hơn về nhận định xung quanh tương lai sắp tới của ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với ông Stuart Livesey, Giám đốc Quốc gia của Copenhagen Offshore Partners (COP) – đơn vị hiện đang quản lý, phát triển dự án điện gió ngoài khơi La Gàn tại Việt Nam.
Ông có thể chia sẻ đánh giá về tiềm năng và thách thức của ngành điện gió ngoài khơi của Việt Nam trong thời gian tới?
Khu vực phía Nam Việt Nam có đáy biển tương đối nông cùng cấu trúc vững chắc để hỗ trợ việc xây dựng. Việc phát triển điện gió ngoài khơi ngoài giúp lực lượng lao động có thể được nâng cao trình độ, các cơ sở hạ tầng cảng có thể nâng cấp để sử dụng cho ngành điện gió ngoài khơi và kích thích chuỗi cung ứng.
Những thách thức hiện tại mà ngành điện gió ngoài khơi đang gặp phải gồm việc chia sẻ thông tin để các cấp, ngành hiểu được về sự khác biệt giữa điện gió ngoài khơi với điện gió trên bờ và điện mặt trời, với nguồn vốn khổng lồ và đòi hỏi sự phức tạp về kỹ thuật của ngành công nghiệp này để xây dựng một hệ thống sản xuất điện ngoài biển và truyền tải điện vào bờ.
Với các dự án cơ sở hạ tầng lớn và quan trọng như vậy, sẽ cần phải có sự phối hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương để chính phủ và các bộ, ban, ngành đưa ra các cơ chế, chính sách và quyết định phù hợp và kịp thời để phát triển ngành này.
Một phần quan trọng nữa, bên cạnh khung pháp lý phù hợp cho điện gió ngoài khơi, việc đảm bảo thỏa thuận mua bán điện có thể được thiết lập để vận hành và quản lý đối với các nhà đầu tư dài hạn và chi phí đầu tư cao như vậy. Nếu chưa giải quyết được những vấn đề trên thì sẽ tạo ra một rào cản lớn đối với đầu tư quốc tế.
Ông đánh giá thế nào về "sức hấp dẫn" của Việt Nam về lĩnh vực này so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á?
Các khu vực Nam Trung bộ như Bình Thuận và Ninh Thuận là nơi có tốc độ gió tốt nhất ở Việt Nam, tuy nhiên khi xét về “điểm sáng” và “điểm tốt nhất”, sẽ có rất nhiều khía cạnh cần được đưa ra như nhu cầu năng lượng, khoảng cách đến lưới điện, cơ sở hạ tầng và truyền tải lưới điện hiện có theo kế hoạch, độ sâu của nước, cơ sở cảng, các hạn chế về môi trường... Những khía cạnh này là lý do tại sao ngành điện gió ngoài khơi luôn rất cần chú trọng vào việc thu thập nhiều thông tin tại các vị trí trọng điểm của dự án, tuy nhiên các giấy phép khảo sát ngoài khơi hiện vẫn đang chưa được phê duyệt.
Việt Nam có tiềm năng to lớn để trở thành trung tâm của Châu Á Thái Bình Dương về cả sản xuất và sử dụng tài nguyên gió ngoài khơi. Đồng thời, tạo ra một chuỗi cung ứng và lực lượng lao động có thể hỗ trợ các quốc gia khác trong khu vực, và thậm chí xuất khẩu năng lượng được tạo ra nhờ nguồn tài nguyên gió dồi dào và vùng nước tương đối nông dọc theo bờ biển dài của Việt Nam.
Thị trường Việt Nam rất hấp dẫn nên nếu có ý định bắt đầu hành trình điện gió ngoài khơi tại quốc gia này thì đây sẽ là một dự án cực kỳ có lợi cả về tài chính cho đất nước cũng như về an ninh năng lượng và đa dạng năng lượng, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng nhập khẩu, đặc biệt là nhiên liệu hóa thạch.
Theo ông, quốc gia nào có điểm tương đồng về lĩnh vực này để Việt Nam học hỏi, tham khảo kinh nghiệm phát triển?
Đài Loan (Trung Quốc) có thể coi là một ví dụ điển hình để Việt Nam tham khảo, đặc biệt là cách họ khởi xướng hành trình điện gió ngoài khơi bằng các dự án thí điểm. Một cơ chế chuyển tiếp với biểu giá dựa trên việc đảm bảo ngày chạy thử để tạo ra năng lượng được truyền tới nhà thầu và sau đó là bên thứ ba chủ trì một cuộc đấu giá cạnh tranh công khai.
Một quốc gia châu Á khác cũng đang phát triển điện gió ngoài khơi là Hàn Quốc. Nhưng lộ trình phát triển ngành này tại đây còn ở giai đoạn sơ khai, từ việc khảo sát cho tới làm việc với Chính phủ về các quy định và chính sách. Điều này cũng gần giống với Việt Nam. Vì vậy, tôi vẫn đánh giá Việt Nam sẽ là nơi có tiềm năng trở thành trung tâm của Đông Nam Á trong ngành này.
Ông có thể chia sẻ thêm về chiến lược phát triển dự án điện gió tại Việt Nam của COP?
Hiện nay, chúng tôi đang triển khai Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn, có công suất 3,5 GW tại tỉnh Bình Thuận, khi hoàn thành sẽ có thể tạo ra đủ điện cho khoảng 7 triệu hộ gia đình Việt Nam và tăng thêm nhiều việc làm. Tổng chi phí của dự án sẽ vào khoảng 10,5 tỷ USD và hơn 4 tỷ USD sẽ được đóng góp trực tiếp cho nền kinh tế Việt Nam.
Đây cũng là một trong những dự án điện gió ngoài khơi được phát triển sớm nhất tại Việt Nam, đề xuất đưa vào Quy hoạch điện VIII, đã nhận được thư chấp thuận của tỉnh, đồng thời cũng đã nộp giấy phép khảo sát ngoài khơi, đã nhận được tất cả các ý kiến đóng góp để hoàn thiện hồ sơ và hiện đang chờ Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt.
Chúng tôi nhận thấy tiềm năng to lớn mà Việt Nam đang có về tài nguyên gió, nhu cầu năng lượng cũng như chuỗi cung ứng và lực lượng lao động có năng lực và có thể chuyển giao. Những điều này đã khiến Việt Nam trở thành một quốc gia lý tưởng để cung cấp điện gió ngoài khơi cho nhu cầu sản xuất năng lượng của chính quốc gia và có tiềm năng trong tương lai để xuất khẩu sang các nước láng giềng.
Việc sớm phê duyệt Quy hoạch điện VIII và giấy phép khảo sát sẽ giúp các doanh nghiệp sẵn sàng thực hiện các cuộc khảo sát ngoài khơi để thu thập thêm dữ liệu, lên kế hoạch thiết kế dự án chi tiết và làm việc với các nhà cung ứng để triển khai dự án một cách tốt nhất…
Xin cảm ơn ông!