Tăng giá điện bắt đầu thể hiện ở CPI, tác động từ tăng lương dự kiến sẽ không lớn

Có tới 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng trong tháng 6, đặc biệt, việc tăng giá điện sinh hoạt và giá thực phẩm đã đẩy CPI tháng 6/2023 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.

Tăng giá điện bắt đầu thể hiện ở CPI, tác động từ tăng lương dự kiến sẽ không lớn

Theo số liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,27% so với tháng trước (khu vực thành thị tăng 0,22%; khu vực nông thôn tăng 0,32%).

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 10 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước và chỉ 1 nhóm hàng giảm giá.

Trong 10 nhóm hàng hóa, dịch vụ tăng giá, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 6/2023 tăng 0,57% so với tháng trước, tác động làm CPI chung tăng 0,19 điểm phần trăm.

Trong đó, chỉ số giá nhóm lương thực chỉ tăng nhẹ 0,09%; nhóm thực phẩm tăng 0,72%, tác động làm CPI tăng 0,15 điểm phần trăm; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,42%, tác động tăng 0,04 điểm phần trăm.

Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tháng 6/2023 cũng tăng 0,16% so với tháng trước do thời tiết nắng nóng, oi bức nên nhu cầu tiêu dùng đồ uống giải khát tăng.

Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tháng 6 tăng 0,11% so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng tăng vào mùa hè.

Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,07% so với tháng trước chủ yếu do giá điện sinh hoạt tháng 6 tăng 2,72% so với tháng trước, giá nước sinh hoạt tăng 0,41% do thời tiết nắng nóng kéo dài, dẫn đến nhu cầu sử dụng điện, nước của người dân tăng lên.

Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tháng 6/2023 tăng 0,19% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở các mặt hàng điện lạnh do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu tiêu dùng tăng.

Nhóm giao thông tháng 6/2023 tăng 0,16% so với tháng trước làm CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm, chủ yếu do giá xăng, dầu trong nước tăng 0,5% so với tháng trước, tác động làm CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm.

Nhóm giáo dục, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch lần lượt tăng 0,11% và 0,34% so với tháng trước. Trong khi, nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,26% so với tháng trước.

Nhóm hàng hóa và dịch vụ duy nhất giảm giá trong tháng 6 là bưu chính viễn thông với mức giảm 0,23% so với tháng trước.

So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 6/2023 tăng 2%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 9 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

So với tháng 12/2022, CPI tháng 6 tăng 0,67%, trong đó có 9 nhóm hàng tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

CPI cả quý 2/2023 tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2022, chủ yếu do nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,03% so với cùng kỳ năm trước; nhóm dịch vụ giáo dục tăng 6,03%; giá điện sinh hoạt tăng 3,53%; giá các mặt hàng thực phẩm tăng 2,8%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,6%; giá gạo trong nước tăng 2,53%.

6-thang-498.png
Quảng cáo

Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 6 và 6 tháng đầu năm các

năm giai đoạn 2019-2023 (%)

Cũng theo Tổng cục Thống kê, tín hiệu đáng mừng là CPI các tháng từ đầu năm đến nay so với cùng kỳ năm trước có xu hướng giảm dần. Trong đó, CPI tháng 1 tăng cao nhất với 4,89%, tháng 2 tăng 4,31%, tháng 3 tăng 3,35%, tháng 4 tăng 2,81%, tháng 5 tăng 2,43% và đến tháng 6 mức tăng còn 2%.

Nguyên nhân chủ yếu do giá xăng dầu trong nước giảm theo giá thế giới làm cho chỉ số giá nhóm giao thông so với cùng kỳ năm trước liên tục giảm, từ mức giảm 0,18% trong tháng 2/2023 đã giảm mạnh 11,98% trong tháng 6/2023. Tính bình quân 6 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 3,29% so với cùng kỳ năm 2022.

Lạm phát cơ bản tháng 6/2023 tăng 0,24% so với tháng trước, tăng 4,33% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, lạm phát cơ bản tăng 4,74% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,29%).

Nguyên nhân chủ yếu do bình quân giá xăng dầu trong nước 6 tháng đầu năm 2023 giảm 18,27% so với cùng kỳ năm trước, giá gas giảm 9,99% là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng của CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

Tăng lương sẽ không tác động nhiều đến lạm phát

Tại họp báo công bố tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2023 do Tổng cục Thống kê tổ chức sáng 29/6, bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá cho biết, trong 6 tháng đầu năm chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn đến sụt giảm nhu cầu tiêu dùng ở nhiều nước và tăng trưởng chậm lại, lạm phát tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. So với các quốc gia khác, Việt Nam không thuộc nhóm nước có mức lạm phát cao khi lạm phát tháng 6/2023 tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.

Theo bà Oanh, lạm phát 6 tháng đầu năm được kiểm soát ở mức thấp chủ yếu do một số mặt hàng giảm giá mạnh, trong đó, giá xăng dầu và giá gas đều giảm so với cùng kỳ năm trước.

Cụ thể, bình quân 6 tháng đầu năm 2023, giá dầu hỏa giảm 8,94% so với cùng kỳ năm trước; giá xăng dầu trong nước cũng giảm 18,27% theo biến động của giá thế giới, tác động làm CPI chung giảm 0,66 điểm phần trăm.

Trong khi đó, giá gas trong nước 6 tháng đầu năm đã giảm 9,99% theo giá thế giới, tác động làm CPI giảm 0,15 điểm phần trăm.

Dù CPI 6 tháng đầu năm tăng thấp, tuy nhiên bà Oanh cho rằng lạm phát những tháng cuối năm vẫn có khả năng tăng khi từ tháng 7 tới đây sẽ tăng lương. Lương tăng kéo theo nhu cầu tiêu dùng hàng hóa tăng lên, có thể dẫn đến giá hàng hóa tăng và thường thì mỗi đợt lương tăng thì giá hàng hóa cũng tăng.

Tuy nhiên, bà Oanh cho rằng, tác động từ tăng lương đến lạm phát sẽ không đáng kể bởi bối cảnh hiện nay nhu cầu tiêu dùng của người dân không cao, nhiều hàng hóa cũng dồi dào nên giá sẽ ổn định.

Bên cạnh đó, một trong những hàng hóa do nhà nước quản lý là học phí tới đây cũng có khả năng tăng, khi tháng 9 bắt đầu vào năm học mới, nếu điều chỉnh giá học phí sẽ tạo áp lực lên lạm phát.

Thêm nữa, bà Oanh cho biết, mới đây giá điện đã tăng 3% và khả năng tới đây có khả năng EVN sẽ tiếp tục tăng giá điện để bù chi phí nên điều này cũng có thể tác động đến lạm phát.

Giá lương thực, thực phẩm cũng thường tăng vào cuối năm. Ngoài ra, yếu tố cầu kéo của các gói hỗ trợ cũng sẽ tăng vào cuối năm.

Bà Oanh cho rằng, tất cả những yếu tố trên có thể tác động làm tăng lạm phát 6 tháng cuối năm chứ không phải là tăng nguy cơ giảm phát như một số ý kiến lo lắng.

Theo Thời Đại Sao chép

Cùng chuyên mục Thị trường

Người mua chờ đợi điều gì từ nay đến cuối năm?

Cuối năm 2024, nhiều dự đoán tích cực về thị trường bất động sản đang tạo tâm lý phấn khởi cho người mua nhà. Song, việc “cân đo đong đếm” giữa các yếu tố khiến không ít người người “gác” chuyện mua nhà sang thời điểm cuối năm 2024.

Nhà đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường bất động sản 2,47 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm Chung cư là phân khúc 'nóng' nhất thị trường bất động sản 6 tháng đầu năm

Việt Nam xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất vào Mỹ

Top 5 thị trường xuất khẩu hạt tiêu chủ lực có đến 4 thị trường tăng trưởng mạnh về khối lượng và trị giá, chỉ riêng thị trường Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất là giảm lượng nhập khẩu.

Thêm vụ nghi lừa đảo khi xuất khẩu hồ tiêu và nhân điều sang thị trường Dubai-UAE Diện tích ngày một giảm, đe dọa vị trí nước xuất khẩu hồ tiêu số 1 thế giới của Việt Nam

Nghịch lý ngành phân bón: Sản xuất dư thừa, nhập siêu vẫn tăng mạnh

Năng lực sản xuất ure của 4 nhà máy trong nước là: Phú Mỹ, Cà Mau, Ninh Bình và Hà Bắc khoảng 3 triệu tấn. Nhu cầu ure cho sản xuất nông nghiệp trong nước từ 1,6 – 1,8 triệu tấn/năm. Sản xuất dư thừa doanh nghiệp phải đẩy mạnh xuất khẩu để giảm tồn kho, trong khi đó nhập khẩu ure vẫn tăng.

Công ty Cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau: Cung ứng tối đa nội địa, hướng mạnh xuất khẩu Phân bón Cà Mau ký hợp tác với Tập đoàn Yetak, đẩy mạnh thị phần tại Campuchia

Xuất khẩu cà phê đã mang về hơn 3 tỷ USD sau nửa năm

Tính đến giữa tháng 6, xuất khẩu cà phê đạt 862.426 tấn, mang về hơn 3 tỷ USD, giảm gần 8% về khối lượng nhưng tăng gần 39% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, nhờ giá bình quân xuất khẩu tăng đến 41%. Trong số 5 thị trường chính thì Đức là quốc gia nhập khẩu số 1 cà phê Việt Nam.

Khối lượng xuất khẩu cà phê của VN sẽ bị tác động trực tiếp khi EUDR chính thức áp dụng Xuất khẩu cà phê sẽ gặp khó khăn tại thị trường EU trong năm 2023

Nghi vấn “rút ruột” hàng hóa tại cảng Cát Lái: Tân Cảng Sài Gòn, VPSA và các doanh nghiệp sẽ điều tra đến cùng

Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), một số doanh nghiệp liên quan và đại diện Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn vừa có buổi làm việc tại Văn phòng VPSA, về tình trạng thiếu hụt hàng hóa trong quá trình xuất khẩu hồ tiêu và cà phê.

Golive phần mềm tham quan thực tế ảo VR360 cảng Tân Cảng Cát Lái từ độ cao 1000m Cảng cạn Tân Cảng Mộc Bài – giải pháp đem cảng tới gần khách hàng

Khác biệt trong cách nhập khẩu gạo của Trung Quốc

Trung Quốc là thị trường mua gạo lớn của Việt Nam, nhiều năm liền đất nước 1,4 tỷ dân này luôn đứng vị trí nước nhập khẩu gạo lớn thứ 2 (sau Philippines). Song, 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo vào Trung Quốc giảm đến 67,83% về lượng và 67,28% về kim ngạch.

Khác biệt trong cách nhập khẩu gạo của Trung Quốc

Trung Quốc là thị trường mua gạo lớn của Việt Nam, nhiều năm liền đất nước 1,4 tỷ dân này luôn đứng vị trí nước nhập khẩu gạo lớn thứ 2 (sau Philippines). Song, 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo vào Trung Quốc giảm đến 67,83% về lượng và 67,28% về kim ngạch.

Nguyên nhân nào khiến xuất khẩu gạo sang Trung Quốc giảm mạnh? Lệnh cấm xuất khẩu gạo của các nước khiến giá lúa, gạo tăng “thẳng đứng”

Cổ phiếu thép “nổi sóng” sau động thái mới của Bộ Công Thương liên quan đến các vụ kiện bán phá giá thép mạ và HRC

Phiên ngày 17/6, các cổ phiếu ngành thép đi ngược thị trường, thậm chí cổ phiếu HSG còn tăng kịch biên độ lên mức đỉnh hai năm sau thông tin Bộ Công Thương quyết định điều tra chống bán phá giá một số sản phẩm thép mạ có xuất xứ Trung Quốc và Hàn Quốc.