Đây là những nhận định được các chuyên gia đưa ra tại tọa đàm "FDI của EU vào Việt Nam trong bối cảnh thực thi Hiệp định EVFTA và EVIPA", do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức ngày 25/10.
Cùng với Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVIPA) được đánh giá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa hai bên, nhất là về kinh tế - thương mại, mở ra cơ hội lớn để Việt Nam gia tăng thu hút FDI từ các quốc gia EU.
Bởi EU hiện đang là đối tác kinh tế lớn và tiềm năng của Việt Nam. EVFTA là FTA thế hệ mới với các cam kết vượt ra ngoài việc xoá bỏ thuế quan, EVFTA được kỳ vọng mang đến cơ hội cho Việt Nam trong việc thu hút FDI chất lượng cao thông qua cải cách thể chế, chính sách và môi trường đầu tư.
Tuy nhiên, sau hơn 2 năm triển khai, thực tế việc thực thi EVFTA và EVIPA cũng đã mang lại cho Việt Nam nhiều thách thức trong việc thu hút đầu tư của doanh nghiệp EU - nhất là trong bối cảnh mới nền kinh tế thế giới nói chung và EU có nhiều biến động như hiện nay.
Đặc biệt, tại tọa đàm, các chuyên gia cho rằng, những lợi thế mà EVFTA mang lại chỉ là ngắn hạn, nhất là khi ngay trong ASEAN, các quốc gia khác trong khối như Thái Lan, Indonesia, Malaysia... cũng đang cạnh tranh với Việt Nam trong thu hút FDI từ EU. Trong khi đó, EU lại đang hướng tới một FTA chung với cả khu vực ASEAN.
Ngoài ra, việc thực thi 2 hiệp định này còn dẫn tới những áp lực bắt buộc với Việt Nam trong cải cách thế chế, chính sách, các chi phí liên quan; thậm chí tạo ra nguy cơ làm giảm dòng FDI vào Việt Nam trong bối cảnh dòng FDI toàn cầu đang suy giảm và chọn lọc hơn.
Doanh nghiệp EU có xu hướng quan tâm hơn tới các ngành dịch vụ, công nghệ cao...
Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), tính đến tháng 8/2022, Việt Nam thu hút được 35.539 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực từ khoảng 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, với tổng vốn đăng ký 430 tỷ USD.
Trình bày báo cáo FDI của EU vào Việt Nam trong bối cảnh thực thi Hiệp định EVFTA và EVIPA, TS Nguyễn Thị Thanh Mai (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, tính đến tháng 8/2022, đã có 25 quốc gia thuộc EU (27) tham gia đầu tư vào Việt Nam, với tổng số dự án là 2.378, có tổng giá trị vốn đăng ký là 27,59 tỷ USD.
Như vậy, xét về vốn, FDI của EU vào Việt Nam chỉ chiếm khoảng chưa tới 6,41% tổng số vốn FDI Việt Nam thu hút được. Còn xét về mặt dự án, chỉ chiếm khoảng 6,69%.
Có thể coi đây là một tỷ lệ khá khiêm tốn so với tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và EU. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Eurostat và Tổng cục Thống kê, tỷ trọng đầu tư vào Việt Nam chỉ dao động từ 2-5% so với tổng số vốn FDI mà EU phân bổ trên thế giới.
Toàn cảnh tọa đàm "FDI của EU vào Việt Nam trong bối cảnh thực thi Hiệp định EVFTA và EVIPA" .Điểm tích cực là sau khi sụt giảm vào năm 2020 với việc Vương Quốc Anh rút khỏi EU cũng như những ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19, đến năm 2021, số lượng các dự án FDI của EU vào Việt Nam đã có xu hướng tăng trở lại và đạt gần mức đỉnh cũ của năm 2019.
Các dự án FDI của EU vào Việt Nam tập trung chủ yếu ở lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo. Các doanh nghiệp EU đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân vào Việt Nam.
Trong đó, 3 lĩnh vực được quan tâm đầu tư nhiều chính là: Công nghiệp chế biến chế tạo; sản xuất phân phối điện và kinh doanh bất động sản. Gần đây, các doanh nghiệp EU có xu hướng quan tâm tới các ngành dịch vụ như logistics, bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ, năng lượng sạch, công nghiệp phụ trợ, chế biến thực phẩm, nông nghiệp công nghệ cao…
Xét theo quy mô, trong khối EU, Hà Lan hiện là đối tác đầu tư lớn nhất trong vào Việt Nam, đóng góp gần 50% tổng số vốn FDI của toàn khối. Bên cạnh đó, một số quốc gia khác như Pháp, Luxembourg, Đức, Đan Mạch và Bỉ cũng đóng góp tới gần 42%.
Nguy cơ là điểm đến của các dự án FDI chất lượng thấp
Tại buổi tọa đàm, nhóm nghiên cứu của VEPR và một số chuyên gia cũng đã chỉ ra, lưu ý nhiều thách thức đối với hoạt động thu hút vốn FDI từ EU vào Việt Nam. Trong đó, VEPR cảnh báo, Việt Nam có nguy cơ trở thành điểm đến của các dự án FDI chất lượng thấp do những hạn chế về nguồn lực.
Theo ông Nguyễn Chiến Thắng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Âu, quy mô các dự án của EU đầu tư vẫn còn nhỏ. Chất lượng các dự án FDI của EU vào Việt Nam hiện còn thấp.
Trong đó, nhóm nghiên cứu cho rằng, trong tương quan so sánh với các nước ASEAN, vai trò điểm đến đầu tư của Việt Nam với các nước EU còn rất hạn chế.
Đồng thời, chất lượng các dự án FDI của EU vào Việt Nam vẫn còn thấp trong tương quan so sánh với các nước cùng khu vực ASEAN. Đáng chú ý, lĩnh vực đầu tư của EU vào Việt Nam tương đối khác so với xu hướng đầu tư chung của khối này vào các nước ASEAN.
Như trên, tại tọa đàm, TS. Nguyễn Thị Vũ Hà, thành viên nhóm nghiên cứu nhận định, những lợi thế mà EVFTA mang lại cho Việt Nam hiện nay chỉ là ngắn hạn; nhất là khi các nền kinh tế chính trong ASEAN như Thái Lan, Indonesia, Malaysia... đang tích cực đàm phán FTA với EU. Cùng với đó, EU cũng mong muốn hướng tới một FTA chung với cả khu vực ASEAN.
Về nguyên nhân FDI từ EU vào Việt Nam không lớn, bà Hoàng Thị Hồng Vân - Trưởng phòng Đối ngoại, Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam nhận định: Việc chi phí logistics còn quá cao đang là một trong những trở ngại chính khiến dòng vốn FDI của châu Âu vào Việt Nam chưa được như kỳ vọng. Bên cạnh đó, những vấn đề "trầm kha" khác như lao động, hạ tầng cũng còn nhiều điều cần được cải thiện.
Nguồn VEPRMột điểm đáng lưu ý khác, nhóm nghiên cứu cũng chi ra rằng, do những hạn chế trong yếu tố nguồn lực, Việt Nam có nguy cơ trở thành điểm đến của các dự án FDI chất lượng thấp.
Cụ thể, do quy định môi trường chưa chặt chẽ, năng lực quản lý và giám sát ảnh hưởng môi trường của dự án FDI còn yếu nên Việt Nam có thể trở thành địa điểm dịch chuyển của dòng FDI chất lượng thấp, gây ô nhiễm môi trường.