Giá vàng trong nước trái chiều thế giới
Mở cửa phiên giao dịch sáng nay (ngày 20/7), giá mua bán vàng miếng SJC tại Công ty TNHH MTV Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) giao dịch ở mức 66,6 - 67,2 triệu đồng/lượng, giảm nhẹ 50 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua bán so với giá khảo sát sáng qua. Chênh lệch giá mua vào - bán ra ở mức 600 nghìn đồng/lượng.
Tương tự, giá mua bán vàng DOJI bán lẻ tại Hà Nội cũng giảm 50 nghìn đồng/lượng ở mỗi chiều mua bán, đang niêm yết ở mức 66,5 - 67,2 triệu đồng/lượng. Chênh lệch giá mua vào - bán ra ở mức 700 nghìn đồng/lượng.
Tại Bảo Tín Minh Châu, giá mua bán vàng miếng được giao dịch ở mức 66,6 - 67,18 triệu đồng/lượng, giảm 50 nghìn đồng/lượng ở mỗi chiều mua bán.
Còn tại PNJ, giá vàng đang được giao dịch ở mức 66,7 - 67,2 triệu đồng/lượng, không đổi so với sáng qua.
Với sản phẩm nhẫn tròn trơn, giá vàng tại các doanh nghiệp được điều chỉnh tăng giảm trái chiều, hiện đang xoay quanh mốc 56 triệu đồng/lượng chiều mua vào và gần 57 triệu đồng/lượng chiều bán ra.
Diễn biến giá vàng tại một số doanh nghiệp lớn sáng ngày 20/7. Tổng hợp: Linh LinhGiá vàng trong nước không có nhiều biến động trong bối cảnh giá kim loại quý trên thị trường thế giới neo ở ngưỡng cao nhất gần 8 tuần khi tin tưởng việc tăng lãi suất sẽ sớm kết thúc và quá trình giảm lạm phát đang diễn ra.
Một cuộc thăm dò của Reuters cho thấy, Fed sẽ tăng lãi suất qua đêm thêm 25 điểm cơ bản vào ngày 26/7, với hầu hết các nhà kinh tế kỳ vọng đó sẽ là lần tăng cuối cùng của chu kỳ thắt chặt hiện tại.
Giá vàng giao ngay trên Kitco hiện đang ở mức 1.983,5 USD/ounce, tăng 5,8 USD, tương đương gần 0,29% so với chốt phiên trước. Quy đổi theo tỷ giá tại Vietcombank, giá vàng thế giới đang được giao dịch ở mức 56,9 triệu đồng/lượng, thấp hơn giá vàng trong nước khoảng 9,7 triệu đồng/lượng.
Biểu đồ: Kitco
Tỷ giá trung tâm đi lên, giá USD tại ngân hàng giảm nhẹ
Sáng nay (ngày 20/7), tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.731 VND/USD, tăng 27 đồng so với phiên liền trước. Với biên độ +/-5% đang áp dụng, tỷ giá trần hôm nay là 24.918 VND/USD và tỷ giá sàn là 22.545 VND/USD.
Tỷ giá mua tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn giữ nguyên ở mức 23.400 VND/USD và tỷ giá bán điều chỉnh tăng 28 đồng, đang ở mức 24.867 VND/USD.
Trong khi đó, tại một số ngân hàng thương mại sáng nay, giá USD lại quay đầu giảm nhẹ.
Cụ thể, VietinBank giảm 10 đồng ở mỗi chiều mua bán so với sáng qua, đang niêm yết USD ở mức 23.469 - 23.809 VND/USD, trong khi BIDV giảm 5 đồng xuống còn 23.490 - 23.790 VND/USD.
Vietcombank vẫn đang mua bán USD ở 23.470 - 23.810 VND/USD, không đổi so với khảo sát sáng qua.
Ngân hàng ACB và Eximbank cùng giảm 10 đồng ở mỗi chiều, đang niêm yết USD ở mức lần lượt 23.490 - 23.790 VND/USD và 23.490 - 23.800 VND/USD.
Sacombank đang niêm yết USD ở mức 23.493 - 23.786 VND/USD, giảm 13 đồng ở mỗi chiều mua bán. Techcombank giảm 11 đồng chiều mua và 10 đồng chiều bán, đang niêm yết USD ở mức 23.475 - 23.812 VND/USD.
Tổng hợp: Linh Linh
Trước đó, trong phiên 19/7, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.704 VND/USD, giảm 10 đồng so với phiên trước đó. Tỷ giá mua giao ngay được giữ nguyên niêm yết ở mức 23.400 VND/USD; tỷ giá bán giao ngay được niêm yết ở mức 24.839 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá chốt phiên ở mức 23.636 VND/USD, tăng nhẹ 1 đồng so với phiên 18/07. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm 30 đồng ở chiều mua vào và 40 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 23.630 VND/USD và 23.660 VND/USD.
Trên thị trường thế giới, chỉ số US Dollar Index (DXY), đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) đang đứng ở mức 100,04 điểm.
Theo giới phân tích, đồng USD đã lấy lại đà tăng sau khi dữ liệu doanh số bán lẻ tháng 6 của Mỹ được công bố. Mặc dù con số tăng ít hơn dự kiến vào tháng 6, nhưng với dữ liệu tháng 5 đã được điều chỉnh, doanh số bán hàng cốt lõi đã cho thấy khả năng phục hồi tốt hơn từ người tiêu dùng.
Việc này không thay đổi kỳ vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong tháng này sau khi đã giữ nguyên lãi suất vào tháng 6.