Hiện giá lúa thơm OM18, DT8 đang ở mức 6.900 - 7.000 đồng/kg, và tuy mới đầu tháng 02/2023, nhưng giá lúa đã hình thành đến thu hoạch tháng 3-4.
Nguồn cung ít, nhu cầu cao đẩy giá lúa mỗi ngày tăng một giá
Thông thường sau Tết Nguyên Đán, nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bắt đầu thu hoạch rộ lúa Đông Xuân, nhưng năm nay do nước đầu nguồn về nhiều, nước rút chậm bà con xuống giống trễ từ 10 – 15 ngày, bên cạnh đó thời tiết trước và sau Tết cũng lạnh nhiều so với trước làm lúa chín chậm hơn nên thu hoạch trễ thêm.
Lúa Đông Xuân chưa thu hoạch rộ nên nguồn cung còn ít, trong khi thị trường hút hàng do còn nhiều hợp đồng ký “đón gió” trước Tết nên bây giờ nhiều doanh nghiệp phải gom hàng trả nợ.
Theo một doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở miền Tây, mỗi ngày giá lúa tăng từ 100 – 200 đồng/kg và gần như tăng từng ngày, còn giá gạo cũng tăng từ 600 – 800 đồng/kg. Năm nay lại hạn chế 2 nguồn từ Ấn Độ và Pakistan nên giá gạo xuất khẩu đang đứng mức cao khiến trường gạo nội địa trở nên nóng chưa từng có.
Mặc dù thị trường lúa gạo đang rất nóng nhưng nhiều doanh nghiệp cho rằng giá lúa gạo có thể không giảm, do gạo Ấn Độ đang tăng giá mạnh, loại gạo thường của Ấn Độ có khối lượng ít nhưng ưu tiên bán cho Bangladesh và Cuba nhờ giá cao, và 2 nước này đang mua gạo của Ấn Độ.
Hiện gạo thường 5% tấm Ấn Độ chưa thuế đang ở mức 435 USD/tấn, gạo 5% Thái Lan giá 490 USD/tấn, giảm so với trước lại nhưng nếp và gạo thơm vẫn lên. Giá gạo 5% tấm của Việt Nam ở mức 470 USD/tấn, tăng 10-12 USD/tấn so với đầu tháng 12/2022 (giá FOB xuất đi Indonesia). Dự kiến gạo thơm Việt Nam sẽ giao dịch từ 500-510 USD/tấn khi vào vụ thu hoạch rộ.
Ngoài việc các doanh nghiệp phải tăng mua để thực hiện các hợp đồng đã ký trước Tết, thì thương nhân Trung Quốc tăng mua gạo khi các doanh nghiệp miền Tây vừa mở cửa hoạt động trở lại sau thời gian nghỉ Tết Nguyên Đán cũng góp phần làm nóng thị trường lúa gạo miền Tây.
Trung Quốc tăng mua gạo và cả mặt hàng nếp là dấu hiệu cho thấy thị trường 1,4 tỷ dân đang đầu cơ tích trữ lương thực, khi mà có nhiều dự báo hạn hán sẽ tiếp tục làm ảnh hưởng nguồn cung lương thực toàn cầu trong năm 2023.
Giá gạo tăng mạnh nhưng doanh nghiệp vẫn khó mua
Dù giá gạo đứng ở mức giá khá cao nhưng doanh nghiệp vẫn không mua được hàng vì nguồn gạo trên thị trường khá khan hiếm và các đầu mối cung ứng không có gạo bán. Cụ thể:
Sáng sớm ngày 01 và ngày 02/2/2023, giá gạo tăng mạnh ở Cái Bè (Tiền Giang), gạo lứt OM18 và DT8 đang giao dịch ở mức giá 11.100 đồng/kg, với gạo OM 5451 được chào mua giá 10.700 đồng/kg (hàng đẹp), gạo IR 50404 giá từ 9.700 - 9.800 đồng/kg.
Theo AgroMonitor, sáng ngày 31/01/2023, giao dịch gạo OM18 sôi động, các nhà kho hỏi mua nhiều, giá bật tăng nhưng nguồn cung gạo quá ít, các thương lái khó gom được lượng hàng lớn giao cho các kho.
Ông Trần Tuấn Kiệt – Giám Đốc Công Ty TNHH Lương thực – Thực phẩm XNK miền Nam cho biết, có 03 nguyên nhân khiến từ ngày mùng 6 Tết đến nay giá gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long tăng mạnh: Thứ nhất, miền Tây chưa vào vụ thu hoạch rộ lúa Đông Xuân, nguồn cung ít nhưng thị trường có nhu cầu đẩy giá lúa tăng mạnh.
Thứ hai, doanh nghiệp gom hàng giao cho các hợp đồng đã ký trước Tết với Indonesia, Philippines và tàu của hai nước này đang cập cảng TP.HCM chờ lấy hàng tạo áp lực cho bên bán.
Thứ ba, sau khi chính phủ Trung Quốc mở cửa lại, thương nhân nước này vào Đồng bằng sông Cửu Long tìm mua gạo cũng là yếu tố góp phần đẩy giá lúa gạo tăng cao.
“Giá lúa gạo tăng do Đồng bằng sông Cửu Long chưa vào Đông Xuân chính vụ, chỉ vài nơi đang thu hoạch nguồn lúa về ít, trong khi các doanh nghiệp đang giao gạo cho Indonesia, giao gạo thơm cho Philippines. Nhu cầu mua gạo từ thị trường Trung Quốc cũng đang tăng mạnh cho thấy thị trường này đang có dấu hiệu đầu cơ”, Giám Đốc Công Ty TNHH Lương thực – Thực phẩm XNK miền Nam nói.
Với diễn biến tình hình thị trường lúa gạo như hiện nay nhiều người tin tưởng rằng vụ lúa Đông Xuân năm nay bà con nông dân sẽ có một vụ lúa vừa trúng mùa vừa trúng giá, bù lại những vụ lúa trước cho thu nhập khá thấp khiến bà con thua thiệt.
“Giá gạo thơm của Việt Nam đang dao động từ 495 – 500 USD/tấn, và hiện đã có doanh nghiệp ký hợp đồng bán cho Philippines giá 515 USD/tấn.
Việc lúa gạo ở miền Tây nhảy giá trong mấy ngày qua có thể hiện tượng tăng ảo, đến khi khu vực thu hoạch rộ lúa gạo sẽ được điều chỉnh về mức giá thực. Dù vậy, cũng không xuống thấp và có thể năm nay giá gạo thơm (gồm OM18 và DT8) xuất khẩu của Việt Nam sẽ không dưới 500 USD/tấn. Đây là mức giá tốt cho nông dân trồng lúa lẫn doanh nghiệp xuất khẩu gạo”, Giám Đốc Công Ty TNHH Lương thực – Thực phẩm XNK miền Nam nhận định.
Việt Nam đứng thứ 3 trong số 6 nước xuất khẩu gạo vào Trung Quốc
Hiện nay Trung Quốc là thị trường có tỷ trọng và giá trị xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Philippines, với việc thị trường 1,4 tỷ dân mở cửa, kỳ vọng giúp doanh nghiệp gạo Việt Nam tăng được sản lượng xuất khẩu sang đây.
Thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho biết, khối lượng gạo xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong năm 2022 đạt 850.949 tấn, trị giá 432.317.331 USD, giảm 19,63% về lượng và giảm 17,29% về kim ngạch so với năm 2021.
Theo thống kê do Tổng cục Hải quan Trung quốc công bố, trong tháng 12/2022, tổng lượng gạo nhập khẩu của Trung Quốc là 420.000 tấn, tăng 90.000 tấn so với tháng trước.
Lượng gạo nhập khẩu lũy kế cả năm 2022 của Trung Quốc là 6,19 triệu tấn, tăng 24,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Vượt hạn ngạch nhập khẩu 5,32 triệu tấn. Lượng gạo nhập khẩu tăng trong năm 2022 chủ yếu đến từ gạo tấm.
Trong tháng 12/2022, lượng gạo xuất khẩu của các nước vào thị trường Trung Quốc có xu hướng điều chỉnh nhẹ, và top 6 thị trường cung cấp gạo cho nước này lần lượt là Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Campuchia, Lào, Ấn Độ và một số các nước khác.
Theo đó, lượng nhập khẩu từ Thái Lan là 136.000 tấn, Myanmar đạt 116.000 tấn, Việt Nam là 42.000 tấn, Campuchia là 26.800 tấn, Lào được 21.800 tấn và Ấn Độ là 20.400 tấn. Tháng 12/2022, Thái Lan trở thành thị trường cung cấp gạo nhiều nhất cho thị trường Trung Quốc.
Trung Quốc nhập khẩu chủ yếu các loại gạo, gồm: Gạo tấm, gạo bóng và gạo lứt. Trong số đó, gạo đã qua xay xát vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 310.600 tấn, chiếm khoảng 75% tổng lượng, tăng 48% so với tháng trước. Gạo tấm ở vị trí thứ 2 với lượng nhập khẩu đạt 98.800 tấn, chiếm 24% tổng lượng gạo nhập khẩu, thấp hơn 11% so với tháng 11/2022.