Sau khi trao Quy chế Quan hệ thương mại bình thường cho Việt Nam vào năm 2001, Mỹ đã xếp Việt Nam là “nền kinh tế phi thị trường”. Điều này đã đặt Việt Nam vào thế bất lợi trong các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp.
Để giành lại sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam đã nỗ lực để được Mỹ công nhận là nền kinh tế thị trường. Trước thềm chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden đến Việt Nam vào tháng 9/2023, Việt Nam đã chính thức yêu cầu Mỹ dỡ bỏ việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Một tháng sau chuyến thăm, DOC đã nhất trí mở cuộc điều tra về việc đưa Việt Nam khỏi danh sách này, dự kiến sẽ công bố quyết định vào cuối tháng 7/2024.
Theo Thạc sĩ Phan Minh Hòa, Giảng viên Đại học RMIT, Mỹ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường sẽ nhất quán với việc tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam, hay đang đầu tư sản xuất tại đây sẽ có lợi khi Việt Nam được công nhận là kinh tế thị trường như vậy sẽ tốt cho 2 nước.
“Mỹ cần tận dụng cơ hội để tiếp tục xây dựng mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các đối thủ cạnh tranh của Mỹ cũng đang tận dụng những FTA mà họ đã ký kết với Việt Nam”, bà Hòa nói.
Bà Hoà cũng chia sẻ, thời gian qua Việt Nam đã nỗ lực theo đuổi sáu tiêu chí kinh tế thị trường mà Mỹ đưa ra. Cụ thể:
Thứ nhất, mức độ chuyển đổi của đồng tiền. Bởi nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam là mục tiêu đã được khẳng định trong Pháp lệnh Ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý, mở rộng biên độ từ 1% lên 3% năm 2015, và hiện tại là 5%.
Để tiền Việt Nam trở thành đồng tiền thực tế tự do chuyển đổi, nhà nước đã đẩy mạnh nỗ lực đảm bảo các cân đối vĩ mô, như kiểm soát lạm phát, xóa bỏ tình trạng đô la hóa nền kinh tế và tăng cường niềm tin của người dân với tiền Việt Nam. Đồng thời, nhà nước cũng tăng dự trữ ngoại tệ, hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối và đổi mới chính sách tiền tệ tỷ giá.
Thứ hai, đàm phán tiền lương, tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động.
“Việt Nam đã có đầy đủ các bộ luật để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên như Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Luật phòng chống mua bán người. Cá nhân tôi tin rằng, việc xác định tiền lương đã thực sự thông qua thương lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động, dù đây là một điểm mà phía phản đối ở Mỹ vẫn đang có những tranh cãi.
Việt Nam cũng tham gia Hiệp định CPTPP, theo đó, Việt Nam đồng ý trao cho các liên đoàn lao động độc lập vai trò lớn hơn. Việt Nam đã trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023-2025 và tiếp tục ứng cử trong nhiệm kỳ tới. Qua đó thể hiện nỗ lực bảo vệ quyền con người và quyền của người lao động”, bà Minh Hòa nhấn mạnh.
Thứ ba, mức độ đầu tư nước ngoài vào các hoạt động kinh tế. Thời gian qua có rất nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và nhiều doanh nghiệp Mỹ đã và đang đầu tư tại Việt Nam. Khu vực FDI đóng góp trên 20% GDP, 50% giá trị sản xuất công nghiệp và 70% xuất khẩu của cả nước.
Thứ tư là việc Việt Nam nhấn mạnh kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo là điểm mà phía phản đối hay sử dụng để lập luận Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường.
Song, theo Luật sư Eric Emerson - Công ty luật Steptoe LLP đại diện cho Bộ Công Thương thì Việt Nam ít can thiệp vào các doanh nghiệp nhà nước hơn so với Ấn Độ, đồng thời cởi mở hơn với đầu tư nước ngoài so với Indonesia, Canada và Philippines – những nước đã được Mỹ coi là nền kinh tế thị trường.
“Cùng với đó, trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước cũng đã được cắt giảm, và qua các kỳ Đại hội Đảng, vai trò của kinh tế tư nhân đã chính thức được khẳng định và nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội Đảng đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60-65%”, Thạc sĩ Phan Minh Hòa nhấn mạnh.
Mức độ kiểm soát của Chính phủ với một số nguồn lực và giá cả là vấn đề thứ năm của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đã từ bỏ kiểm soát giá cả.
Luật Giá 2023 đã loại trừ các mặt hàng như điện, muối, đường, chỉ giữ lại 09 mặt hàng thiết yếu cần bình ổn giá: Xăng, dầu diesel, khí dầu mỏ hóa lỏng, sữa công thức cho trẻ em, gạo, thức ăn gia súc, vaccine, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thiết yếu cho con người. Các biện pháp can thiệp cũng được quy định rõ chỉ sử dụng trong thời gian nhất định vì lý do khẩn cấp như thiên tai hay gián đoạn chuỗi cung ứng.
Cuối cùng là các yếu tố khác. Các yếu tố này tùy DOC quyết định và có thể bị ảnh hưởng bởi một số lý do khác.
Bà Hòa cho rằng, với những nỗ lực đã thực hiện và sự ghi nhận của những đối tác lớn, Việt Nam thực chất đã vận hành như một nền kinh tế thị trường.
Song, vẫn có ý kiến phản đối đến từ một số nghị sĩ ở Thượng viện và Hạ viện Mỹ, Liên minh Tôm miền Nam, Hiệp hội chế biến tôm Mỹ, Liên minh các nhà sản xuất và công nhân thép, …
Đối với Mỹ, trì hoãn hay chính thức công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, họ sẽ cân nhắc ý kiến từ cả hai chiều. Ở góc nhìn kinh tế học, chính phủ nên quyết định dựa trên lợi ích của toàn xã hội chứ không phải của một vài nhóm lợi ích.
“Sẽ luôn tồn tại những quan điểm khác nhau trong kinh tế, xuất phát từ lợi ích khác nhau của các bên. Sau hơn hai thập kỷ chịu bất lợi trong các vụ kiện chống bán phá giá, việc được Mỹ công nhận sẽ giải phóng những trở ngại cho xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy các đối tác còn lại công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Thương mại tự do sẽ mang lợi ích lớn cho người tiêu dùng, như hạ giá sản phẩm, tăng thêm sự lựa chọn, thúc đẩy hợp tác cùng mở rộng thị trường, và có thể một vài nhóm ngành sản xuất nội địa sẽ không nhận được bảo hộ nữa”, bà Hòa nói.