Tăng trưởng GDP Việt Nam 2025: Nắm bắt những cơ hội
“Điều quan trọng nhất đối với nền kinh tế là chất lượng tăng trưởng của các ngành nghề, các lĩnh vực phải đồng đều và bền vững” - chuyên gia của HSBC nhìn nhận.
Quý IV/2024, Việt Nam công bố tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 7,55% so với cùng kỳ năm trước, duy trì xu hướng quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 5,98%, quý II tăng 7,25%, quý III tăng 7,43%). Tăng trưởng tích cực của quý IV cũng đã đưa GDP cả năm 2024 của Việt Nam ước tính tăng 7,09% so với năm 2023, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của các năm 2018, 2019 và 2022 trong giai đoạn 2011-2024.
Con số tăng trưởng cao trong năm 2024 theo đó càng củng cố kỳ vọng đạt GDP khoảng 6,5-7% và có thể cao hơn là 7-7,5% mà Quốc hội đặt ra cho năm 2025 - năm tăng tốc, bứt phá, về đích, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
Nhìn nhận về triển vọng tăng trưởng năm 2025 của Việt Nam, ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối Ngoại hối, thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán, HSBC Việt Nam, cho rằng ngoài động lực chính từ vốn đầu tư, đặc biệt là dòng vốn FDI, động lực tăng trưởng năm 2025 còn đến từ sự chuyển dịch từ hoạt động xuất khẩu sang kinh tế nội địa, khi niềm tin tiêu dùng sẽ phục hồi ngày càng nhiều cùng với lạm phát được kiểm soát ở mức thấp.
GIỮ VỮNG TĂNG TRƯỞNG CAO
Năm 2025, Việt Nam vẫn còn dư địa để tăng trưởng khi kinh tế trên đà phục hồi và dòng vốn FDI vẫn tích cực. Vậy vì sao HSBC duy trì dự báo GDP năm 2025 của Việt Nam khoảng 6,5%, trong khi việc tăng trưởng 2 năm liên tiếp ở mức 7% không phải là chưa từng có ở Việt Nam?
Ông Ngô Đăng Khoa: HSBC luôn nhận định Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực, là “ngôi sao đang lên” của ASEAN.
Do đó, tôi cho rằng không nên nhìn những con số dự báo tuyệt đối để kết luận là tăng trưởng nhanh hay chậm. Điều quan trọng nhất với nền kinh tế của chúng ta chính là chất lượng tăng trưởng của các ngành nghề, các lĩnh vực có đồng đều và bền vững hay không?
Nếu tăng trưởng hàng năm ở mức vừa phải nhưng bền bỉ trong một thời gian dài vẫn tốt hơn sự sụt giảm liên hồi và bất ổn định. Vì vậy, theo tôi việc duy trì được tăng trưởng ổn định quan trọng hơn rất nhiều.
Vậy theo đánh giá của ông, động lực tăng trưởng của Việt Nam trong năm tiếp theo sẽ tập trung ở những lĩnh vực nào?
Tăng trưởng của Việt Nam trong những năm vừa qua và những năm sắp tới vẫn chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư, bao gồm đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Trong hai năm vừa qua, chúng ta nhận thấy đầu tư trong nước hơi chững lại, tôi hy vọng lĩnh vực này sẽ tăng trưởng nhanh hơn trong những năm tới. Nhất là trong thời gian gần đây, chúng ta chứng kiến quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ trong đầu tư cơ sở hạ tầng trong nước.
Một động lực tăng trưởng khác là dịch vụ và bán lẻ. Năm 2024 chứng kiến sự tăng trưởng khá tốt của các lĩnh vực này, tuy nhiên, phần lớn là nhờ ngành du lịch mà chủ yếu là du khách nước ngoài.
Trong khi đó, sự phục hồi của tiêu dùng vẫn chưa cho thấy những dấu hiệu khả quan. Tôi kỳ vọng khi nền kinh tế tăng trưởng tốt hơn vào cuối 2024, với tăng trưởng quý IV/2024 đạt 7,55% và cả năm 2024 đạt 7,09%, đặc biệt là thị trường bất động sản ấm hơn, trong năm 2025, người dân hoặc doanh nghiệp nội địa sẽ tự tin tiêu dùng nhiều hơn, tạo động lực tăng trưởng cho năm nay và những năm tiếp theo.
Tiềm năng của tiêu dùng nội địa ở nước ta hiện rất lớn khi dân số đã vượt 100 triệu người và thu nhập bình quân của người dân tăng lên, thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình cao, theo báo cáo của Chính phủ. Khi kinh tế ngày càng phát triển, đến lúc nào đó Việt Nam sẽ có thể giảm dần phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài, như xuất khẩu, để chuyển sang tiêu dùng nội địa.
Theo dự báo, nền kinh tế Việt Nam đến năm 2028 có thể đạt quy mô 726 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng trung bình 6,6%/năm trong giai đoạn 2023-2028. Theo ông làm sao để Việt Nam có thể duy trì được tăng trưởng như dự báo?
Điều quan trọng là Việt Nam phải làm sao giữ được xu hướng tăng trưởng bền vững. Việt Nam cần phải phát triển đúng với năng lực của mình, nếu không sẽ là lãng phí các nguồn lực. Chính phủ và các cơ quan quản lý cần có chính sách tận dụng được tất cả những nguồn lực để đạt được tăng trưởng ở mức cao nhất.
Nhìn sang câu chuyện của nước láng giềng Trung Quốc, có thể thấy quốc gia này từng có giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt gần một thập kỷ với mức tăng hai chữ số, nhưng đã chậm lại trong 2-3 năm gần đây, xuống khoảng 5%. Hiện rất khó để Trung Quốc quay lại mức tăng trưởng 6% bởi vì quy mô nền kinh tế đã khác.
Như vào năm 2011, GDP của Trung Quốc khoảng 7.300 tỷ USD, trên mức nền nhỏ này, tăng trưởng có thể đạt mức 2 con số mỗi năm. Nhưng hiện nay quy mô GDP của Trung Quốc đã tăng hơn 2 lần (khoảng 17.800 tỷ USD vào năm 2023), như vậy tăng trưởng khoảng 5% cũng đã tạo sự khác biệt lớn.
Đối với Việt Nam cũng tương tự. Năm 1990, quy mô GDP của Việt Nam chưa tới 10 tỷ USD, nhưng đến nay, quy mô GDP được dự báo lên mức 400 - 500 tỷ USD thì Việt Nam sẽ khó tăng trưởng theo tốc độ nhanh như vậy nữa.
Tuy nhiên, để duy trì tăng trưởng, quan trọng nhất là cải thiện năng suất lao động trên cơ sở ứng dụng những công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI) hay nắm bắt cơ hội trong lĩnh vực bán dẫn… Khi công nghệ cao được ứng dụng, năng suất lao động sẽ tăng và chắc chắn GDP cũng sẽ tăng. Vấn đề cốt lõi hiện nay là phải nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị.
Cùng với đó, phải tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài bền vững và có khả năng chuyển giao công nghệ để thu hút thêm các công nghệ mới. Để thực hiện được điều này, bên cạnh những yếu tố cơ bản vững chắc và chính sách thu hút phù hợp, cần tận dụng các nguồn lực hiệu quả và phát triển cơ sở hạ tầng.
NẮM BẮT NHỮNG CƠ HỘI
Về thu hút đầu tư nước ngoài, hiện nay Việt Nam đang nỗ lực để thu hút các “đại bàng” công nghệ. Vậy Việt Nam cần làm gì để có thể đạt được mục tiêu?
Để thu hút các “đại bàng” công nghệ nước ngoài, ngoài các chính sách ưu đãi về thuế hay đất đai, vấn đề cơ sở hạ tầng cũng rất quan trọng. Cơ sở hạ tầng của chúng ta có tăng trưởng phù hợp với mức tăng GDP chưa? Bởi nếu cơ sở hạ tầng không tăng trưởng tương ứng thì chắc chắn không thể đáp ứng được nhu cầu phát triển, đặc biệt là đối với những ngành công nghệ cao.
Ngoài ra, Việt Nam rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao nếu muốn tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Những năm qua Việt Nam đã bắt đầu nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng chỉ dừng ở mức độ lắp ráp các sản phẩm điện tử hoặc sản xuất những sản phẩm dân dụng, chứ chưa thực sự tham gia nhiều vào các ngành công nghệ cao như bán dẫn. Vì vậy, để tham gia sâu vào công nghiệp bán dẫn, Việt Nam phải đầu tư cho nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Và để làm được như vậy cần phải có vốn.
Theo tính toán, để có thể thu hút đầu tư vào công nghệ bán dẫn, một quốc gia cần phải đầu tư cả trăm tỷ USD. Như vậy câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có thể thu xếp 100 tỷ USD để đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng nhằm kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài không? Và khi đó chúng ta có đủ nguồn lực để nắm bắt những cơ hội này hay không?
Tuy nhiên, đây vẫn là cơ hội mà Việt Nam cần phải nắm bắt nếu muốn đạt những bước phát triển nhảy vọt như Hàn Quốc hay Nhật Bản.
Bên cạnh việc thu hút dòng vốn FDI, thị trường chứng khoán cũng là một kênh thu hút vốn ngoại. Tuy nhiên thực tế, trong năm 2024, các nhà đầu tư nước ngoài lại đang rút ròng, mà một trong những nguyên nhân chính xuất phát từ quan ngại về tỷ giá. Ông nhận định ra sao về thực trạng này?
Khi đồng tiền nội tệ của một quốc gia có xu hướng mất giá so với đồng USD, các nhà đầu tư nước ngoài đều sẽ có khuynh hướng rút vốn ra khỏi thị trường đó nhằm tránh giảm giá trị tài sản do tỷ giá biến động nhanh.
Do đó, Việt Nam không phải là trường hợp duy nhất bị rút ròng trong nhóm thị trường cận biên (Frontier Market) hay mới nổi (Emerging Market). Điều này cũng diễn ra ở các thị trường khác trong khu vực như Hàn Quốc hay Indonesia.
Trong khi đó, thị trường chứng khoán Mỹ từ đầu năm 2024 tới nay đang tăng trưởng rất tốt, bối cảnh đó sẽ khiến nhà đầu tư tập trung vào thị trường Mỹ, Ấn Độ, hay Nhật Bản để tối đa hóa lợi nhuận. Đó là xu thế chung mà Việt Nam không thể tránh khỏi.
Liên quan đến việc nâng hạng thị trường, một trong những rào cản lớn nhất là nút thắt Prefunding gần đây đã được tháo gỡ. Theo ông, điều này sẽ tác động ra sao đến quá trình xét nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam?
Việc Việt Nam bỏ quy định về Prefunding bắt đầu từ tháng 11 này được FTSE Russell nhìn nhận là một điểm tích cực. Tuy nhiên, FTSE Russell vẫn phải theo dõi và quan sát một thời gian, sau đó tiếp tục ghi nhận phản hồi từ những nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường Việt Nam.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số vấn đề khác mà nếu Việt Nam có thể giải quyết được, chúng tôi hy vọng thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được nâng hạng lên nhóm thị trường mới nổi vào tháng 3 hoặc tháng 9/2025.
Còn về câu chuyện lãi suất, ông dự báo như thế nào về lãi suất năm 2025?
Theo dự báo của HSBC, lãi suất chính sách sẽ không đổi trong năm 2025. Thứ nhất, vì Chính phủ luôn đặt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, như vậy, mặt bằng lãi suất phải ở mức tương đối để có thể hỗ trợ tăng trưởng.
Thứ hai là yếu tố lạm phát. Nếu lạm phát vẫn được kiểm soát tốt dưới 4% thì lãi suất sẽ không tăng. Hơn nữa, Fed cho biết vẫn còn đang thực hiện nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, do vậy NHTW Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất một cách thận trọng. Trong bối cảnh đó, nếu Việt Nam giảm lãi suất sẽ gây áp lực lên tỷ giá, khiến tỷ giá biến động nhiều, gây ảnh hưởng thị trường chung.