TỔNG THUẬT: Hội thảo quốc gia “Thúc đẩy tài chính xanh hướng tới mục tiêu Net-Zero của Việt Nam”

Sáng nay (27/5), tại Hà Nội, Học viện Ngân hàng phối hợp cùng Viện tăng trưởng xanh toàn cầu và Tạp chí Doanh nghiệp và Kinh tế xanh tổ chức Hội thảo quốc gia với chủ đề “Thúc đẩy tài chính xanh hướng tới mục tiêu Net-Zero của Việt Nam”. PGS. TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng chủ trì Hội thảo.

z6642731767308-bb3fcf35ad329c6acd98e6272c4c1a7e-1748310849.jpg
Toàn cảnh Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Dự hội thảo, về phía cơ quan quản lý nhà nước có: Ông Tô Trần Hoà, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển thị trường (Uỷ ban chứng khoán Nhà nước); ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường); ông Nguyễn Thăng Long, Vụ các định chế tài chính (Bộ Tài chính); ông Lê Xuân Chung, Giám đốc Trung tâm Vật lý hạt nhân, Viện khoa học và Kỹ thuật hạt nhân (Bộ Khoa học và Công nghệ).

Tham dự hội thảo có ông Nguyễn Mạnh Thắng, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Doanh nghiệp và Kinh tế xanh; ông Kwon Jae Haeng, Chủ tịch Uỷ ban hỗ trợ Kinh tế Hàn-Việt (KVECC) kiêm trưởng đại diện Tổ chức Đa văn hóa Hàn Quốc; bà Trần Bảo Minh, đại diện Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) Việt Nam; ông Trương Gia Bảo, Phó Chủ tịch - Tổng thư ký Liên chi Hội Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIREA); bà Phí Thị Minh Nguyệt, đại diện Tổ chức Climate Bond Innitiatives (CBI).

Ban tổ chức tặng hoa đại biểu và diễn giả tham dự Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Hội thảo còn có sự tham dự của đại diện các doanh nghiệp, tổ chức cũng như cán bộ, giảng viên của các cơ sở giáo dục đại học, học viện và các cơ quan truyền thông, báo chí.

Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu đã tập trung làm rõ nhiều khía cạnh quan trọng như khung lý luận và pháp lý cho tài chính xanh, vai trò của các cơ quan điều tiết nhà nước trong thúc đẩy tín dụng và đầu tư xanh, cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp, cũng như ứng dụng công nghệ trong quản lý và triển khai các công cụ tài chính xanh. Các đại biểu cũng chia sẻ các kinh nghiệm quốc tế trong việc thúc đẩy tài chính xanh và quản trị ESG, từ đó rút ra bài học phù hợp với bối cảnh Việt Nam.

Phát biểu đề dẫn Hội thảo, PGS. TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng cho biết: Sau một thời gian dài chiến tranh và giành được độc lập, đất nước ta đã ổn định và phát triển, nhưng giờ đây, điều quan trọng không chỉ là phát triển, mà là phát triển như thế nào để đảm bảo tính bền vững.

Do đó, phát triển xanh - một chủ đề mang tính thời sự toàn cầu đòi hỏi sự chung tay của tất cả các quốc gia. Việt Nam đã nhận diện rõ vấn đề này và thể hiện qua hàng loạt chủ trương, kế hoạch cụ thể.

Trên trường quốc tế, Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu với cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 và thamgia sáng kiến làm mát toàn cầu cùng với hơn 60 quốc gia khác.

PGS. TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng phát biểu đề dẫn Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Để hiện thực hóa các cam kết này, tài chính đóng vai trò then chốt, trong đó ngành ngân hàng chính là “kênh dẫn mạch” để cung cấp nguồn lực cho các hoạt động hướng đến phát triển bền vững. Thời gian qua, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những bước đi tích cực, nhưng đồng thời vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết đồng bộ, từ việc hoàn thiện cơ chế tài chính xanh đến xác định rõ điều kiện cho các doanh nghiệp xanh.

Ông Nguyễn Mạnh Thắng, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Doanh nghiệp và Kinh tế xanh tham dự Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

PGS. TS Bùi Hữu Toàn khẳng định: Hội thảo lần này vì thế chính là một "sân chơi" cần thiết, nơi quy tụ các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách trong và ngoài nước, cùng nhau trao đổi, chia sẻ và cung cấp những giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy tiếp cận tài chính xanh.

"Học viện Ngân hàng, với vai trò là cơ sở đào tạo và nghiên cứu, mong muốn đóng góp mạnh mẽ vào tiến trình hiện thực hóa mục tiêu phát triển xanh, phát triển bền vững và hướng tới một Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050", ông Toàn nói.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu và tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải chung tay vì mục tiêu chung. Tại COP26 Việt Nam đã cam kết sẽ đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 với sự hỗ trợ của quốc tế về tài chính và công nghệ.

“Nếu chúng ta không thực hiện cam kết thì sẽ ra khỏi cuộc chơi của thế giới. Việt Nam đã cam kết chuyển đổi năng lượng sạch, năng lượng tiết kiệm, nếu không áp dụng thì không thể cạnh tranh, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu”, ông Quang nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Theo ông Quang, để thực hiện được mục tiêu, một trong những giải pháp quan trọng là chuyển dịch năng lượng từ nâu sang xanh. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch không đơn giản, phải mất thời gian, công nghệ, tài chính…

Ông lấy ví dụ từ năm 1840-1900 sử dụng than đá, trong 60 năm tỷ lệ chuyển đổi sang sử dụng than đá chỉ chiếm 50%. Từ năm 1910-1970 chuyển dịch sang dầu khí, nhưng trong 60 năm tỷ lệ chuyển đổi chỉ khoảng 40%.

Sau đó từ năm 1930-1990 chuyển sang khí thiên nhiên, tỷ lệ chuyển đổi là 20%. Và từ 2015 đến nay chuyển sang năng lượng tái tạo, tỷ lệ trên thế giới đạt được 20%, còn ở Việt Nam tỷ lệ chuyển đổi sang năng lượng gió, mặt trời là 13%.

Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới để đạt phát thải ròng bằng 0 thì từ nay đến 2040 Việt Nam cần 360 tỷ USD, trong khi GDP khoảng 450-500 tỷ USD. Như vậy, con số để chuyển đổi rất lớn, cần huy động cả hệ thống chính trị, tư nhân, các định chế tài chính,…

Ông Kwon Jae Haeng, Chủ tịch Uỷ ban hỗ trợ Kinh tế Hàn-Việt (KVECC) kiêm trưởng đại diện Tổ chức Đa văn hóa Hàn Quốc tham dự Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Thời gian qua các ngân hàng đã có những nỗ lực, BIDV cam kết triển khai các chương trình tài chính xanh và đã cho vay gần 2 tỷ USD, Vietinbank gần 27.000 tỷ đồng,… con số này còn khiêm tốn, để bổ sung cần có thêm nguồn tài chính xanh từ các định chế tài chính quốc tế. Sau COP26 các định chế đã cam kết tài trợ khoảng 130.000 tỷ USD để đặt chống biến đổi khí hậu trở thành trọng tâm trong hoạt động kinh doanh, nếu Việt Nam có thể tiếp cận được các nguồn tài chính xanh này thì có thể đạt được mục tiêu Net Zero vào 2050.

Theo ông Quang, giải pháp thời gian tới là cần hoàn thiện thể chế pháp luật. Hiện các khái niệm tài chính xanh vẫn chưa rõ ràng và chưa đề cập một cách toàn diện nên cần hoàn thiện hành lang pháp lý. Vừa qua, Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ xem xét bộ tiêu chí tài chính xanh, trong đó có 7 lĩnh vực xem xét được cấp tài chính xanh.

Một giải pháp nữa là tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp, các dự án đầu tư gắn với tiêu chí xanh. Về nguyên tắc các doanh nghiệp cam kết giảm phát thải nhà kính sẽ được cấp tín chỉ các bon. Điều này rất quan trọng vì thị trường các bon kiểm soát khoảng 20% phát thải toàn cầu.

Hiện nay Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp cùng Bộ Tài chính, trong năm 2025 này thí điểm thị trường các bon, sau đó đưa vào thực hiện. Làm thế nào tài chính xanh hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thị trường các bon.

Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, qua đó tác động để các doanh nghiệp nỗ lực để thực hiện các dự án xanh. Đồng thời, học hỏi kinh nghiệm quốc tế để áp dụng mô hình phù hợp với Việt Nam. Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác quốc tế để tiếp cận các nguồn tài chính xanh.

Tại phiên tham luận, PGS.TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng cho biết, việc chuyển từ nền kinh tế “nâu” sang “xanh” là một vấn đề không dễ. Theo ông Toàn, để tiến tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần con số khổng lồ gần 360 tỉ USD.

"Vậy tiền này ở đâu ra, cần phải làm gì, cần phải nghiên cứu như thế nào, ngân sách có không, bao nhiêu, tín dụng có không, trong nước bao nhiêu, bên ngoài bao nhiêu", ông Toàn đặt vấn đề.

Hiện nay, ngân sách tài chính xanh của quốc tế là 130.000 tỉ USD, đây là một con số khổng lồ. Nhưng Việt Nam làm thế nào để tiếp cận thì lại là một bài toán khó.

Trong giai đoạn gần đây, chúng ta hay nghe câu “thể chế là điểm nghẽn”, tức vấn đề liên quan về luật, nghị định, thông tư.

Hội thảo bước vào phiên bàn tròn. (Ảnh: Anh Đức)

Đồng tình với ý kiến của ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), ông Toàn cho rằng Việt Nam cần xây dựng bộ tiêu chuẩn, tiêu chí, bởi nếu không có bộ tiêu chuẩn thì không thể tiếp cận tài chính xanh.

"Khi các doanh nghiệp đến ngân hàng vay vốn, khi được hỏi “xanh dựa vào đâu” thì lại không biết. Điều này rất khó cho ngân hàng. Bởi doanh nghiệp cần chứng minh “xanh” dựa vào bao nhiêu tiêu chí bởi Ngân hàng cho vay thì phải có tiêu chí", ông Toàn nói.

Ông Toàn cũng trích dẫn ý kiến của ông Nguyễn Tuấn Quang: “Nếu cho vay xanh nhưng lãi thương mại thì hỏng. Mà ngân hàng là một doanh nghiệp, phải tiếp cận nguồn vốn xanh thì ngân hàng mới cho vay xanh được.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn gần đây, Tổng Bí thư, Thủ tướng cũng nhấn mạnh câu chuyện làm thế nào để nghiên cứu và nghiên cứu thế nào để cho ra nghiên cứu, các nhà nghiên cứu kiến nghị chính sách cần cụ thể như thế nào.

Còn về hợp tác quốc tế, ông Toàn cũng đề nghị ông Quang nếu có điều kiện thì hỗ trợ học viện ngân hàng tham gia vào các hoạch định chính sách. Học viện ngân hàng với mong muốn được tham gia, hỗ trợ.

Trình bày tham luận tại hội thảo, ông Tô Trần Hoà, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển thị trường, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cho hay, thực trạng của thị trường vốn xanh hiện nay còn nhiều hạn chế. Gần nhất vào năm 2024, các tổ chức mới huy động được 8.000 tỷ đồng trái phiếu xanh, nếu so với con số trái phiếu đã huy động trong năm 2024 thì con số này chỉ chiếm khoảng 1%.

Ông Tô Trần Hoà, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển thị trường (Uỷ ban chứng khoán Nhà nước) phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Hiện thị trường Việt Nam chưa có tiêu chí tín dụng xanh, các hoạt động phát hành này đều sử dụng tiêu chuẩn quốc tế. Việc này đặt ra yêu cầu Việt Nam cần có những tiêu chí xanh để các tổ chức có căn cứ để phát hành.

Về khung pháp lý, thị trường tài chính Việt Nam đã đề cập đến phát triển tín dụng xanh, song những chính sách này mới mang tính nghị định và định hướng, cần phải hoàn thiện thêm.

Tháng 10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành ký Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” với mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP, xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn... Đồng thời, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 quy định về các danh mục dự án được cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh…

Tháng 12/2023, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 1726/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 trong đó đặt mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán ổn định, an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững, hội nhập; nâng cao khả năng chống chịu rủi ro, có cơ cấu hợp lý giữa các cấu phần thị trường, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng, chủ yếu cho nền kinh tế; duy trì tăng trưởng về quy mô, chú trọng nâng cao chất lượng; phát triển các công cụ tài chính xanh, tài chính bền vững; đẩy mạnh công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực chứng khoán…

Mới đây nhất, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cũng đề cập đến việc đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG).

Theo ông Hòa, kế hoạch phát triển thị trường vốn xanh của Uỷ ban Chứng khoán là xây dựng hạ tầng thị trường xanh và thị trường các-bon, giai đoạn 1 (2025-2027) chuẩn bị pháp lý, thí điểm sàn giao dịch các-bon, xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Giai đoạn 2 (từ 2028) vận hành chính thức sàn giao dịch, mở rộng giao dịch, liên kết thị trường quốc tế.

Về phía UBCKNN đã xây dựng nhiều chương trình và sổ tay hướng dẫn để định hướng cho doanh nghiệp xây dựng các báo tài chính, từ đó xây dựng các báo cáo tài chính xanh.

Về thách thức phát triển thị trường vốn xanh, thiếu bộ tiêu chuẩn phân loại xanh nhằm phân loại dự án xanh cho tín dụng và trái phiếu doanh nghiệp. Thiếu các dữ liệu chuẩn có tính so sánh để doanh nghiệp có định hướng xây dựng, phát triển tiêu chuẩn xanh ví dụ các báo cáo phát triển bền vững thường mang tính định tính, chẳng hạn chỉ riêng xử lý nước thải hoá chất là gì, xử lý công nghệ gì… và thiên về mô tả hoạt động của doanh nghiệp.

Các diễn giả chia sẻ khung lý thuyết về tiêu chuẩn xanh tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Thiếu hoạt động đánh giá, xác nhận độc lập từ các tổ chức. Ở Việt Nam đã có những tổ chức đánh giá độc lập nhưng chưa phát huy hết vai trò trong lĩnh vực này. Các chính sách khuyến khích và hỗ trợ đang trong quá trình hoàn thiện. Với Nghị quyết 68 là cơ hội mở đường những đề xuất cụ thể, cần sự hỗ trợ hơn nữa. Cuối cùng, lợi ích cho doanh nghiệp còn chưa được chứng minh một cách khoa học và rõ ràng.

Tuy nhiên, thống kê từ các tổ chức tín nhiệm của Việt Nam, các doanh nghiệp tham gia phát hành tín dụng xanh, tài chính xanh lợi nhuận tăng trưởng. Việc chứng minh rõ ràng giúp phát triển xanh một cách bền vững.

Ông Tô Trần Hoà nêu ra một số định hướng như: Hoàn thiện các chính sách, sản phẩm gắn với thực hiện chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2021-2030; Ban hành Kế hoạch hành động Tăng trưởng xanh của thị trường chứng khoán đến năm 2030; Phối hợp với các bộ, ngành trong việc ban hành danh mục phân loại xanh quốc gia; Tuyên truyền, đào tạo về tiềm năng, cách thức hoạt động của thị trường vốn xanh, các sản phẩm tài chính xanh.

Đồng thời, yêu cầu doanh nghiệp có dự án xanh công bố thông tin một cách minh bạch, đầy đủ, chính xác về các dự án xanh. Nghiên cứu chính sách ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp niêm yết, doanh nghiệp đại chúng đầu tư dự án xanh. Ngoài ra, cần hoàn thiện và cơ cấu lại Chỉ số phát triển bền vững (VNSI). Triển khai Quyết định số 232 về phê duyệt đề án thành lập và phát triển thị trường các-bon Việt Nam.

Bàn về các giải pháp hoàn thiện cơ chế nhằm thúc đẩy phát triển xanh và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero), PGS.TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng nhấn mạnh, phát triển xanh không thể được triển khai một cách ồ ạt hay tùy tiện, mà cần có định hướng rõ ràng, cơ sở pháp lý vững chắc và tiêu chí cụ thể để thực hiện.

Ông chỉ rõ một thực tế đáng quan ngại: Nhiều doanh nghiệp tuy nói theo đuổi mục tiêu “xanh”, nhưng lại không có nguồn vốn xanh để thực hiện, dẫn đến sự thiếu nhất quán giữa tuyên bố và hành động.

Điều này, theo ông Toàn, bắt nguồn từ sự thiếu hụt hệ thống tiêu chí đánh giá và xác định “xanh” một cách chính thức, hợp pháp.

Toàn cảnh phiên thảo luận toàn thể tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Về giải pháp, ông cho rằng việc tham khảo bộ tiêu chí từ quốc tế là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần thận trọng khi “nhập khẩu” những bộ tiêu chí đó vào Việt Nam. Nếu không được nội luật hóa hoặc điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn trong nước, chúng chỉ mang tính chất tham khảo, chưa đủ giá trị pháp lý để áp dụng rộng rãi.

Do đó, ông Toàn đề xuất cần xây dựng bộ tiêu chuẩn và tiêu chí rõ ràng để xác định sản phẩm, dịch vụ hay doanh nghiệp “xanh” theo hai hướng tiếp cận. Một là Nhà nước trực tiếp ban hành, điều này giúp tiết kiệm chi phí và tạo sự đồng bộ. Hai là Nhà nước uỷ quyền cho các tổ chức công lập hoặc tổ chức đủ năng lực thực hiện việc đánh giá và chứng nhận, dưới sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý.

"Phát triển xanh là xu hướng tất yếu, không sớm thì muộn doanh nghiệp cũng sẽ phải chuyển đổi. Tuy nhiên, để thúc đẩy quá trình này một cách hiệu quả, vai trò kiến tạo của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước không chỉ đóng vai trò trong việc xây dựng cơ chế, mà còn cần yêu cầu cụ thể đối với từng sản phẩm, dịch vụ phải đáp ứng các tiêu chuẩn xanh, qua đó tạo áp lực tích cực và động lực chuyển đổi mạnh mẽ trong toàn bộ nền kinh tế", PGS.TS. Bùi Hữu Toàn khẳng định.

Bà Trần Bảo Minh, Cán bộ tài chính bền vững, Viện Tăng trưởng Xanh toàn cầu (GGGI Việt Nam) phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Phát biểu tại Hội thảo, bà Trần Bảo Minh, Cán bộ tài chính bền vững, Viện Tăng trưởng Xanh toàn cầu (GGGI Việt Nam) cho biết, GGGI là một tổ chức quốc tế, liên chính phủ được thành lập năm 2012, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Phát triển bền vững Rio +20. Đến nay, GGGI đã có 51 quốc gia thành viên trên toàn thế giới. Việt Nam là một trong những nước sáng lập và là đối tác quan trọng.

Thời gian qua, GGGI Việt Nam đã nỗ lực thực hiện sứ mệnh tăng trưởng xanh giúp các thành viên tăng trưởng bền vững. Trong thời gian đầu hoạt động, GGGI Việt Nam chủ yếu hỗ trợ về chính sách, hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng, tài chính bền vững, khởi nghiệp. Từ 2022 đến nay GGGI Việt Nam tham gia hỗ trợ phát hành trái phiếu xanh.

GGGI đang thực hiện nhiều dự án hỗ trợ tăng trưởng xanh tại Việt Nam như: Chương trình sẵn sàng cho trái phiếu xanh Việt Nam (từ 2020-2025) với mục tiêu thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu xanh; Dự án hỗ trợ phát triển hệ thống giao dịch phát thải của Việt Nam với mục tiêu phát triển hệ thống giao dịch các-bon cấp quốc gia nhằm hỗ trợ Việt Nam đạt cam kết giảm phát thải nhà kính; Dự án thúc đẩy các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực hiệu quả năng lượng với mục tiêu hỗ trợ và tăng cường phát triển các doanh nghiệp khởi nguồn đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực hiệu quả năng lượng (2022-2025); Dự án làm mát đô thị bền vững tại Việt Nam với mục tiêu hỗ trợ Việt Nam giải quyết nhu cầu về làm mát bền vững theo cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (2022-2025).

Chia sẻ tại Hội thảo, ông Phạm Nam Hưng, đại diện Phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, về tiến trình xây dựng và vận hành thị trường các-bon tại Việt Nam, coi đây là yếu tố then chốt để hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050.

Ông Phạm Nam Hưng, đại diện Phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Ông Hưng cho biết, thị trường các-bon thế giới đang dần được thiết lập hoàn chỉnh từ nay đến năm 2050. Tuy nhiên, để hình thành một cơ chế vận hành hiệu quả không hề đơn giản. Dẫn chứng từ cơ chế hợp tác trong Thỏa thuận Paris, ông cho biết quá trình đàm phán và hoàn thiện khung cơ chế hợp tác, thị trường các-bon đã kéo dài tới hơn 10 năm (từ 2015 đến năm 2024), cho thấy mức độ phức tạp và yêu cầu kỹ thuật cao của thị trường này.

Tại Việt Nam, các bước chuẩn bị đã được triển khai tích cực. Nghị định 06/2022/NĐ-CP được ban hành, xác định rõ các đối tượng có trách nhiệm kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính. Đến cuối năm 2023, đã có 2.166 doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc thực hiện kiểm kê khí nhà kính, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc tham gia vào mục tiêu chung về giảm phát thải, ông Hưng cho biết.

Quảng cáo

Chỉ rõ về thị trường các-bon, ông Hưng cho biết, thị trường được chia thành hai nhóm: thị trường tuân thủ (như hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính – ETS) và thị trường tự nguyện (bao gồm các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ trong nước và quốc tế, trong đó có cơ chế theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris).

Để thị trường này vận hành hiệu quả, ông Hưng nhấn mạnh cần nhanh chóng thành lập sàn giao dịch các-bon trong nước, cho phép giao dịch tín chỉ và hạn ngạch phát thải, đồng thời xây dựng hệ thống đăng ký quốc gia do Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) quản lý.

Cùng với đó là việc hoàn thiện cơ sở đo lường, tiêu chuẩn minh bạch và hệ thống tín chỉ theo chuẩn quốc tế, những điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể tham gia thị trường toàn cầu và tiếp cận tài chính xanh. Ông cảnh báo, nếu không kịp thời hoàn thiện cơ chế này, việc đạt được các mục tiêu Net Zero và phát triển kinh tế đạt mức 2 con số sẽ gặp nhiều trở ngại.

Ông Hưng cũng chia sẻ lộ trình phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam gồm ba giai đoạn:

Giai đoạn 2015-2027: giai đoạn chuẩn bị và thí điểm, tập trung vào hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng cơ sở hạ tầng, vận hành sàn giao dịch thí điểm và nâng cao nhận thức, năng lực.

Giai đoạn 2028: vận hành chính thức sàn giao dịch các-bon trong nước, mở rộng thị trường ETS, bổ sung các loại tín chỉ và đối tượng tham gia giao dịch.

Sau năm 2030: mở rộng và kết nối thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, hướng đến tích hợp toàn diện với hệ sinh thái tài chính khí hậu toàn cầu.

"Để thị trường các-bon hoạt động hiệu quả và bền vững, cần có sự tham gia và ủng hộ mạnh mẽ của toàn xã hội, từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp đến cộng đồng, cùng chung tay hiện thực hóa các cam kết khí hậu và xây dựng một nền kinh tế xanh, phát triển bền vững", ông Hưng khẳng định.

Trình bày tham luận về phát triển khu công nghiệp Net-Zero đón đầu dòng vốn đầu tư xanh tại Việt Nam, ông Trương Gia Bảo, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Liên chi Hội Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIREA) cho biết, hiện trên cả nước đang có 435 khu công nghiệp (KCN), dự kiến giai đoạn 2025-2030 sẽ tăng lên 1.000 KCN và sau 2030 sẽ có hơn 3.000 KCN trên cả nước.

Ông Trương Gia Bảo, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Liên chi Hội Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIREA) chia sẻ tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Hiện tại có khoảng 50.000 doanh nghiệp tại các KCN. Đây là đối tượng có ảnh hưởng rất lớn bởi các tiêu chuẩn về tăng trưởng xanh, trong đó có thuế liên quan đến Net-Zero.

Theo ông Bảo, có nhiều doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi cam kết Net-Zero, đầu tiên là các doanh nghiệp dệt may, da giày, điện tử,… kế đến là các ngành nông nghiệp, hóa chất,…

Đối với doanh nghiệp, quan điểm Net-Zero là sự cân bằng nhà kính, nghĩa là lượng phát thải khí CO2, metan từ hoạt động được bù đắp hoàn toàn bằng năng lượng tái tạo, tái chế, thu giữ các bon hoặc hấp thụ tự nhiên, giảm tác động biến đổi khí hậu.

Hiện nay trên thế giới, xu hướng phát triển các KCN Net-Zero đang ngày càng nhiều thông qua các loại hình công nghiệp ít phát thải như khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp thông minh.

Bên cạnh đó, xu hướng hướng tới cân bằng khí nhà kính bằng các giải pháp như sử dụng năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió), kinh tế tuần hoàn (tái sử dụng 25% chất thải), công nghệ xanh (AI, IoT, CCS,...),... cũng ngày càng được xem trọng.

Chính phủ Việt Nam đã cam kết tại COP26 là đạt Net-Zero vào năm 2050, giảm 30% khí metan vào năm 2030. Do đó phát triển các khu công nghiệp Net-Zero là chiến lược trọng tâm, thu hút đầu tư xanh, tạo việc làm, thu hút các doanh nghiệp FDI có công nghệ xanh.

Các khu công nghiệp cần có mô hình cơ sở hạ tầng thân thiện với môi trường. Đầu tiên là nhà máy thông minh, robot hóa kết hợp với AI, tối ưu hóa các quy trình sản xuất, nhà máy xử lý nước thải.

Phát triển nguồn nhân lực tập trung vào phúc lợi của nhân viên, các KCN ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng lực lượng lao động khoẻ mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần và hài lòng, coi việc xanh hoá môi trường lao động như phúc lợi của nhân viên.

Tổng số 433 KCN thành lập, đang hoạt động 298 KCN, diện tích khoảng 155.300 ha, tỷ lệ lấp đầy 70-85% tuỳ từng vùng, góp 50% vào kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước, tạo ra khoảng 4 triệu việc làm (chiếm 41,3% việc làm tại khu vực Đông Nam Bộ). Hiện, FDI xanh chưa có số liệu chính thức, chiếm từ 10-15% vốn đầu tư.

Chiến lược thu hút FDI xanh, theo ông Bảo, thúc đẩy sản xuất năng lượng tái tạo ở mức độ cao hơn và đạt được mức độ trung hoà các-bon. Đầu tư cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ chung để tối ưu hoá việc sử dụng tài nguyên (ví dụ mạng lưới hơi nước, nhà máy thu hồi các-bon dioxide (CO2), đồng phát/tạm phát điện sử dụng sinh khối hoặc khí sinh học).

“Cần khuyến khích thành lập các doanh nghiệp tái chế và cơ sở phân loại cung cấp dịch vụ cho các công ty thuê đất KCN. Xem xét lại các mô hình kinh doanh để cải thiện quản lý năng lượng, nước và chất thải tại cấp công viên….”, ông Bảo nói.

Đại diện Liên chi hội BĐS Công nghiệp Việt Nam (VIREA) cũng chỉ ra thách thức tới từ chi phí đầu tư ban đầu cao, việc xây dựng cơ sở hạ tầng xanh đòi hỏi vốn lớn, ước tính trung bình hàng trăm triệu USD cho mỗi KCN.

Ngoài ra, việc thiếu nhân lực chất lượng cao, do lực lượng lao động ở Việt Nam chủ yếu được đào tạo cho các ngành công nghiệp truyền thống cũng gây nên nhiều cản trở trong quá trình thu hút nguồn vốn xanh. Bên cạnh đó là khung pháp lý chưa đồng bộ và hạn chế về nhận thức và cam kết.

Giải pháp được ông Bảo nêu ra là huy động vốn đa dạng, đào tạo và nâng cao kỹ năng nhân lực, hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao nhận thức và cam kết.

Tại phiên thảo luận, PGS.TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng nhấn mạnh, nguồn nhân lực chất lượng cao giữ vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi sang phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn. Theo ông, phát triển xanh không nhất thiết phải bắt đầu từ những điều to tát, mà có thể bắt đầu từ những hành động cụ thể, thiết thực như xử lý nước thải.

"Nước thải đổ thẳng ra sông khác hoàn toàn với nước thải đã qua xử lý. Đó là sự khác biệt giữa phá hoại môi trường và bảo vệ môi trường,” ông nói.

Ông dẫn chứng một ví dụ sinh động về công nghệ chế biến rác thải ở Malaysia, nơi rác được tái chế thành sản phẩm hữu ích, như những chiếc áo được làm từ chất liệu tái chế. Theo ông, đây là minh chứng rõ ràng cho thấy những thứ tưởng chừng như vô dụng hoàn toàn có thể trở nên có ích nếu được xử lý và ứng dụng công nghệ phù hợp. Tuy nhiên, để làm được điều đó, yếu tố con người là then chốt.

Ông chỉ ra thực tế rằng, Việt Nam hiện vẫn đang thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực phát triển bền vững và công nghệ môi trường. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, đào tạo và huấn luyện cho các khu công nghiệp, các địa phương là hết sức cấp thiết.

Từ đó, ông đề xuất ký kết hợp tác giữa Học viện Ngân hàng và Liên chi Hội Bất động sản khu công nghiệp VN (VIREA) trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, nhằm góp phần giải bài toán này.

PGS.TS. Bùi Hữu Toàn nhấn mạnh, khi đã tìm ra được nguồn nhân lực phù hợp, điều quan trọng tiếp theo là phát triển và đào tạo họ.

"Câu chuyện đào tạo không chỉ là giải pháp ngắn hạn mà phải là chiến lược dài hạn", ông khẳng định.

Học viện Ngân hàng, với thế mạnh về nghiên cứu, đào tạo và kết nối chuyên gia, luôn sẵn sàng đồng hành cùng các khu công nghiệp và doanh nghiệp trong nỗ lực xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, nền tảng quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển xanh và bền vững.

Tại hội thảo, ông Nguyễn Thăng Long, đại diện Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính), đã trình bày rõ hơn về chính sách và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu xanh, một trong những công cụ tài chính quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero).

Ông Nguyễn Thăng Long, đại diện Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính) chia sẻ tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Ông cho biết, thời gian qua, Bộ Tài chính đã có nhiều giải pháp cụ thể nhằm khuyến khích phát hành trái phiếu xanh, trong đó bao gồm việc xây dựng các quy định cụ thể để tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch cho thị trường tài chính xanh.

Theo ông Long, Nghị định 08 đã quy định rõ về việc phát hành trái phiếu tài chính xanh, đặc biệt là yêu cầu về việc phân bổ nguồn thu từ trái phiếu xanh đúng mục đích đã cam kết. Nguồn vốn huy động được từ trái phiếu xanh cần được sử dụng một cách minh bạch và có báo cáo giám sát cụ thể. Đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo niềm tin của nhà đầu tư, cũng như tạo cơ sở cho các chính sách ưu đãi.

Đáng chú ý, để nhận được ưu đãi tài chính dành cho trái phiếu xanh, ông Long nhấn mạnh rằng các dự án và trái phiếu phát hành phải được thẩm định và thông qua bởi Chính phủ, theo quy định trong Nghị định 08. Việc này nhằm kiểm soát nguồn vốn, đảm bảo những dự án “xanh” được tiếp cận các chính sách hỗ trợ và ưu đãi đặc biệt.

Điều này cho thấy, trái phiếu xanh không chỉ là một công cụ tài chính đơn thuần, mà là một cơ chế đòi hỏi sự minh bạch, giám sát chặt chẽ và có định hướng chiến lược rõ ràng. Trong bối cảnh Việt Nam cam kết mạnh mẽ với các mục tiêu phát triển bền vững và khí hậu, việc hoàn thiện chính sách, làm rõ cơ chế ưu đãi và tăng cường triển khai thực tế sẽ là chìa khóa để mở rộng thị trường tài chính xanh trong thời gian tới.

Bà Phí Thị Minh Nguyệt, đại diện Climate Bond Innitiatives (CBI) cho rằng, để phát triển tổng thể thị trường tài chính xanh cần quá trình dài.

Bà Phí Thị Minh Nguyệt, đại diện Climate Bond Innitiatives (CBI) chia sẻ tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Tại Việt Nam, để phát triển thị trường tài chính xanh cần chú ý đến 3 vấn đề.

Thứ nhất, cần xác định được đâu là dự án xanh, điều này liên quan đến khái niệm xanh và phân loại xanh. Hiện nay, CBI đang tư vấn về phân loại xanh. Tùy thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia và công nghệ, phân loại xanh cần được cập nhật thường xuyên để hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ hai, về các cơ chế hỗ trợ phát triển, trong quá trình nghiên cứu, sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ là rất cần thiết. Ví dụ phát triển trái phiếu xanh đắt đỏ hơn phát triển trái phiếu bình thường. Tại Singapore, Chính phủ quốc gia này đang có nhiều chính cơ chế hỗ trợ cho việc phát hành trái phiếu xanh.

“Mặc dù hiện nay các định chế tài chính quốc tế có tài trợ cho phát hành trái phiếu xanh nhưng nguồn lực có hạn. Cho nên, về dài hạn cần hướng đến sức mạnh nội tại của các nước và sự hỗ trợ của chính phủ”, bà Nguyệt nói.

Từ kinh nghiệm tư vấn phát hành, bà Minh Nguyệt cho biết, số lượng trái phiếu xanh phát hành tại Việt Nam quá ít, nhưng số lượng đăng ký mua lại lớn, thậm chí có những trái phiếu có lượng đăng ký mua gấp 10 lần khối lượng phát hành.

Thứ ba, bà Nguyệt gợi ý có thể tăng cường trái phiếu xanh chính phủ như ý tưởng ban đầu, từ đó kích hoạt phát triển trái phiếu xanh.

Tham gia thảo luận tại Hội thảo, ông Phạm Nam Hưng, đại diện Phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, việc phát triển và vận hành thị trường các-bon tại Việt Nam là yêu cầu tất yếu, song còn nhiều thách thức cần được giải quyết đồng bộ.

Ông Phạm Nam Hưng, đại diện Phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tham gia thảo luận tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Hiện nay, Bộ Tài chính đã được giao nhiệm vụ phối hợp xây dựng và phát triển thị trường các-bon trong nước, hướng đến phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.

“Tuy nhiên, hiện Việt Nam chưa ban hành bất kỳ bộ tiêu chuẩn cụ thể nào để đánh giá việc giảm phát thải khí nhà kính, mà chủ yếu vẫn đang trong quá trình học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước. Trong khi đó, để đạt được mức cắt giảm 150 triệu tấn khí thải CO₂ như mục tiêu đề ra, việc sử dụng tín chỉ các-bon là không thể thiếu”, ông Hưng chia sẻ.

Để thị trường các-bon vận hành hiệu quả, ông Hưng cho rằng cần có hệ thống tài chính minh bạch, bao gồm các quy định rõ ràng về giao dịch, tài chính, đăng ký và theo dõi tín chỉ. Đây là yếu tố cốt lõi để bảo đảm thị trường hoạt động ổn định, đáng tin cậy và có thể thu hút được sự tham gia rộng rãi từ doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước.

Dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia khác, ông Hưng cũng đề xuất nhà nước có thể áp dụng một số cơ chế ưu đãi để thúc đẩy thị trường tín chỉ các-bon, từ đó tạo thuận lợi cho quá trình giao dịch cũng như góp phần vào mục tiêu chung là giảm phát thải khí nhà kính.

Cuối cùng, ông đề xuất, để thiết lập được một thị trường giao dịch tín chỉ các-bon hiệu quả, cần phải đầu tư nghiêm túc vào công tác nghiên cứu, xây dựng thể chế và hạ tầng kỹ thuật, bởi đây là một bài toán không đơn giản nhưng mang tính chiến lược đối với Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.

Tham gia phiên thảo luận bàn tròn, ông Trương Gia Bảo, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Liên chi Hội Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIREA) cho biết, chủ trương của nước ta là phát triển công nghiệp công nghệ cao và hậu công nghiệp do Việt Nam có thế mạnh nguyên liệu chất hiếm.

Ông Trương Gia Bảo, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Liên chi Hội Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIREA) tham gia thảo luận tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Hiện thế giới đang chứng kiến khủng hoảng nguồn chip, khi số lượng chip ưu tiên công nghệ cao thì các loại máy tính bảng giá rẻ không có, đây là cơ hội để Việt Nam phát triển công nghiệp công nghệ cao. Ở Indonesia không xuất khẩu nguyên liệu thô và Việt Nam cũng đang hướng đến điều đó.

“Việt Nam hưởng lợi Trung Quốc +1 vào năm 2017 và gần đây nhất là thuế đối ứng của Tổng thống Mỹ, các quốc gia về công nghệ cân nhắc chọn Indonesia, Malaysia, Việt Nam. Việc chủ động chính sách của chính phủ Việt Nam là đòn bẩy quan trọng nhưng vấn đề năng lực cần được chú ý hơn”, ông Bảo nói.

Phát biểu tại phiên thảo luận, TS. Lê Xuân Chung, Giám đốc Trung tâm Vật lý hạt nhân, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho rằng, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp và cực đoan, thế giới đã và đang có những cam kết mạnh mẽ hướng tới phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050.

TS. Lê Xuân Chung, Giám đốc Trung tâm Vật lý hạt nhân, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân (Bộ Khoa học và Công nghệ) chia sẻ tại Hội thảo. (Ảnh: Anh Đức)

Để hiện thực hóa mục tiêu này, nhiều quốc gia đang chuyển đổi mạnh mẽ sang năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió. Tuy nhiên, một câu hỏi lớn đặt ra là, điện hạt nhân đóng vai trò gì trong bức tranh chuyển đổi năng lượng này?

Theo ông Chung, năng lượng hiện đang đóng góp khoảng 26,5% vào lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Trong khi đó, điện hạt nhân lại được coi là một nguồn năng lượng sạch, phát thải khí nhà kính rất thấp, có tiềm năng lớn trong phát triển bền vững.

Tính đến năm 2023, điện hạt nhân đã chiếm khoảng 9% tổng sản lượng điện toàn cầu, cho thấy vai trò không thể xem nhẹ của loại năng lượng này.

Ông Chung cũng chia sẻ về lịch sử phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam, với dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận từng được xây dựng trong giai đoạn 2009 - 2016 nhưng sau đó đã bị tạm dừng theo quyết định của Bộ Chính trị.

Tuy nhiên, với những biến động về khí hậu và nhu cầu đảm bảo an ninh năng lượng hiện nay, Việt Nam quyết tâm tái khởi động điện hạt nhân vào cuối năm 2024, đặt mục tiêu phát triển trở lại trong vòng 5 năm tới.

Lý giải vì sao nên lựa chọn điện hạt nhân, ông Chung cho biết, đây là nguồn năng lượng ổn định, không phụ thuộc vào thời tiết, có thể hoạt động liên tục 24/7, giúp đảm bảo tích điện cho các nhà máy và hệ thống công nghiệp. Ngoài ra, chi phí sản xuất điện từ năng lượng hạt nhân về lâu dài còn rẻ hơn so với nhiều loại hình khác, đặc biệt là trong bối cảnh giá năng lượng biến động.

Đáng chú ý, hiện nay Việt Nam đã có sẵn chiến lược và nguồn lực khoa học - công nghệ cho điện hạt nhân, trong đó có lực lượng chuyên gia, kỹ sư chuyên ngành được đào tạo bài bản.

Ông Chung cho biết, hiện tại đã có khoảng 2.400 nhân lực được đào tạo, đủ sức đảm đương một phần nhu cầu khi tái triển khai các dự án hạt nhân.

Bên cạnh vai trò trong sản xuất điện, năng lượng hạt nhân còn có nhiều ứng dụng trong lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp và y tế, góp phần thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ nói chung và phát triển bền vững nói riêng.

Do đó, theo ông Chung, điện hạt nhân không chỉ là một lựa chọn kỹ thuật, mà còn là giải pháp chiến lược cần được xem xét nghiêm túc trong tiến trình thực hiện cam kết giảm phát thải và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Ban tổ chức và đại biểu, diễn giả tham dự Hội thảo chụp ảnh kỷ niệm. (Ảnh: Anh Đức)

Phát biểu kết luận Hội thảo, PGS. TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng đánh giá cao chất lượng các tham luận và tinh thần làm việc trách nhiệm của các đại biểu. Ông cho biết, hội thảo đã diễn ra thành công với 5 phiên thảo luận chuyên đề, quy tụ nhiều chuyên gia, nhà khoa học, đại diện cơ quan quản lý và doanh nghiệp, qua đó chia sẻ những thông tin thiết thực và hữu ích phục vụ cho quá trình triển khai chính sách, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi xanh và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.

PGS. TS. Bùi Hữu Toàn ghi nhận và đánh giá cao Khoa Tài chính – Học viện Ngân hàng trong vai trò kết nối với các cơ quan bộ, ngành và tổ chức hội thảo với tinh thần trách nhiệm cao. Ông nhấn mạnh, với những vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn, các chuyên gia sẽ tiếp tục phối hợp, tổng hợp và báo cáo Ngân hàng Nhà nước để có hướng tháo gỡ phù hợp.

Bên cạnh đó, các bài viết, tham luận tiêu biểu được lựa chọn đăng tải trên Tạp chí Học viện Ngân hàng sẽ được chuyển về các trường, phục vụ công tác tham khảo, giảng dạy và học tập của giảng viên, sinh viên.

Thay mặt Ban Tổ chức, PGS. TS. Bùi Hữu Toàn, Bí thư đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng gửi lời cảm ơn tới các cơ quan báo chí, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và cộng đồng doanh nghiệp đã đến tham dự và đóng góp ý kiến quý báu tại hội thảo. Ông chúc các đại biểu, giảng viên và chuyên gia dồi dào sức khỏe, tiếp tục có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.

Theo doanhnghiepkinhtexanh.vn Sao chép

Cùng chuyên mục Tài chính

Thị trường chững lại phiên thứ 2 sau khi lập đỉnh mới

Sự hạ nhiệt của thị trường chứng khoán đã kéo dài sang phiên thứ hai liên tiếp. Trong khi phần lớn các nhóm ngành có diễn biến điều chỉnh, chỉ còn một số cổ phiếu thuộc nhóm bất động sản, năng lượng và khu công nghiệp cho thấy khả năng đi ngược xu hướng

Chứng khoán Việt vừa có 3 doanh nghiệp vốn hóa trên 10 tỷ USD Chứng khoán KAFI mở thêm hạn mức 6.000 tỷ tại BIDV

Chứng khoán KAFI mở thêm hạn mức 6.000 tỷ tại BIDV

Chứng khoán KAFI đã liên tục có những động thái mở hạn mức tín dụng lớn tại các tổ chức tín dụng trong thời gian gần đây. Vào đầu tháng 6, KAFI đã mở thêm hạn mức tín dụng 6.000 tỷ đồng tại BIDV.

Chứng khoán VTGS sắp có đợt tăng vốn gấp 22 lần APG tăng mạnh nhất nhóm Chứng khoán, tiếp tục có những chuyển động thượng tầng

Thị trường lại chững đà tăng ngay sau khi có đỉnh mới

Các phiên chững lại trong các đợt vượt đỉnh của thị trường đang diễn ra đan xen và thường xuyên hơn. Nhiều nhóm cổ phiếu như Bất động sản, Chứng khoán, Năng lượng đã cùng xảy ra tình trạng phân hóa.

Chứng khoán VFS dự báo thị trường còn rung lắc nhiều hơn quanh mốc 1.330 điểm Neo đỉnh 3 năm, thị trường đang "toan tính" điều gì?

Giá vàng vẫn trên ngưỡng 3.300 USD/ounce

Giá vàng không biến động nhiều vào chiều 4/6 dù số liệu việc làm tương đối mạnh của Mỹ đã lấn át thông tin về bất ổn kéo dài trong quan hệ thương mại Mỹ-Trung và những lo ngại về kinh tế toàn cầu.

Giá vàng SJC đi ngang bất chấp vàng thế giới lên đỉnh 3 tuần Chiều 3/6, giá vàng rời khỏi mức cao nhất gần bốn tuần do đồng USD tăng nhẹ

APG tăng mạnh nhất nhóm Chứng khoán, tiếp tục có những chuyển động thượng tầng

Từ đầu năm 2025, cổ phiếu APG đã tăng gần 90%, trở thành một trong những mã chứng khoán tăng mạnh nhất. Sự xuất hiện của nhóm cổ đông mới, trong đó có ông Huỳnh Minh Tuấn, cùng dòng tiền từ khối ngoại đang khiến giới đầu tư chú ý hơn.

Chủ tịch Phạm Minh Hương: VNDIRECT là công ty chứng khoán độc lập với ngân hàng Neo đỉnh 3 năm, thị trường đang "toan tính" điều gì?