Thông tin tại buổi họp báo thường kỳ tháng 10/2025 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) sáng ngày 6/10, ông Trần Gia Long, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ NN&MT) cho biết, xuất khẩu NLTS tiếp tục ghi nhận mức tăng đáng kể.
Theo đó, kim ngạch xuất khẩu NLTS tháng 9 qua ước đạt 6,35 tỷ USD, tăng 11,8% so với tháng 9/2024, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 9 tháng của năm 2025 đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 28,51 tỷ USD, tăng 16,8%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 447,5 triệu USD, tăng 18,6%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 8,12 tỷ USD, tăng 12,3%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 13,41 tỷ USD, tăng 7,4%.
Hiện đã có 5 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD gồm: cà phê (6,98 tỷ USD), rau quả (6,22 tỷ USD), hạt điều (3,75 tỷ USD), gạo (3,55 tỷ USD), tôm (3,36 tỷ USD) và gỗ (8,42 tỷ USD). Nhiều mặt hàng ghi nhận giá xuất khẩu tăng mạnh như cà phê tăng 45,3%, hồ tiêu tăng 37,4%, điều tăng 17,5%, cao su tăng 10,9%.
Đáng chú ý, 9 tháng năm 2025, cán cân thương mại NLTS thặng dư 15,93 tỷ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ, đóng góp khoảng 92,8% tổng mức xuất siêu của cả nền kinh tế.
Xét theo nhóm hàng, lâm sản, thủy sản và nông sản là 3 nhóm hàng có cán cân thương mại 9 tháng đầu năm 2025 ở trạng thái thặng dư. Cụ thể: Nhóm lâm sản ước đạt thặng dư 11,01 tỷ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2024; Nhóm thủy sản thặng dư 5,74 tỷ USD, tăng 7,1%; Và nhóm nông sản thặng dư 6,13 tỷ USD, tăng 41,3%.
Xét theo mặt hàng cụ thể, có 7 mặt hàng NLTS có thặng dư thương mại ước tính 9 tháng đầu năm 2025 đạt trên 1 tỷ USD gồm: gỗ và sản phẩm gỗ thặng dư 10,15 tỷ USD, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; cà phê thặng dư 6,68 tỷ USD, tăng 64,4%; hàng rau quả thặng dư 4,33 tỷ USD, tăng 8,8%; tôm thặng dư 2,84 tỷ USD, tăng 12,5%; gạo thặng dư 2,04 tỷ USD, giảm 38,7%; cá tra thặng dư 1,46 tỷ USD, tăng 7,9%; hạt tiêu thặng dư gần 1,06 tỷ USD, tăng 18%.
Theo Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến, những kết quả này, đặc biệt con số thặng dư trên 92% cho thấy nông nghiệp Việt Nam đang giữ vai trò bệ đỡ trong bối cảnh biến động.
“Thiên tai, dịch bệnh và thị trường còn nhiều rủi ro, nhưng chúng ta đã tận dụng cơ hội từ giá cả quốc tế, mở rộng thị trường và duy trì được thặng dư kỷ lục. Đây là tín hiệu đáng mừng, song cũng là động lực để toàn ngành tiếp tục củng cố sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa thị trường trong thời gian tới”- Thứ trưởng phân tích.
Đánh giá về thời cơ trong giai đoạn tới, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, nếu xuất khẩu NLTS duy trì được đà 5 tỷ USD/tháng (điều trong khả năng, nhất là khi các nước phương Tây thường có xu hướng tăng cường tiêu dùng dịp cuối năm), giá trị xuất khẩu toàn ngành sẽ đạt 67 tỷ USD trong năm 2025.
Nếu lạc quan hơn, mỗi tháng xuất khẩu 6 tỷ USD (tháng 9 vừa rồi xuất khẩu đạt 6,35 tỷ USD), ngành sẽ phá sâu kỷ lục của năm 2024 và đạt cột mốc 70 tỷ USD.
|
Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng nông sản của Việt Nam với thị phần chiếm 43,9%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23% và 14,2%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3% và 1,3%. So với cùng kỳ năm 2024, ước giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam 9 tháng đã qua của năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 4,1%; châu Mỹ tăng 11,4%; châu Âu tăng 40,6%; châu Phi tăng 91,6%; và châu Đại Dương tăng 6,5%. Xét theo thị trường chi tiết, Hoa Kỳ với thị phần 20,6%, Trung Quốc với thị phần 20% và Nhật Bản với thị phần 7,1%, là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông sản lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm 2024, ước giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam 9 tháng đã qua của năm 2025 sang cả 3 thị trường đều tăng. Cụ thể, Hoa Kỳ tăng 9%, Trung Quốc tăng 5,9%, và Nhật Bản tăng 23,9%. |