Chất lượng dòng vốn thay đổi rõ rệt
Việt Nam đã thu hút nhà đầu tư từ 153 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 44.801 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký xấp xỉ 526 tỷ USD. Đây không chỉ là kết quả của chu kỳ đầu tư thuận lợi, mà phản ánh sự dịch chuyển chiến lược toàn cầu hướng về các nền kinh tế ổn định, nhân lực tốt và hạ tầng công nghiệp ngày càng hoàn thiện.
Trong 10 tháng năm 2025, tổng vốn FDI đăng ký đã đạt 31,52 tỷ USD, tăng 15,6 % so với cùng kỳ; vốn thực hiện ước 21,3 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm.
Không chỉ tăng về số lượng, chất lượng dòng vốn cũng thay đổi rõ rệt. Các nhà đầu tư ưu tiên lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, năng lượng tái tạo, hạ tầng công nghệ cao, logistics và bất động sản công nghiệp. Xu hướng “FDI xanh” và “FDI công nghệ” đang trở thành tiêu chuẩn lựa chọn mới trên thị trường Việt Nam.
Ông Phạm Thanh Bình, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thông tin và Hỗ trợ đầu tư phía Bắc (Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Tài chính) cho biết, Việt Nam thời gian tới sẽ chuyển hướng sang thu hút có chọn lọc, tập trung vào 4 trụ cột chiến lược: công nghệ cao, bán dẫn, AI, công nghệ sinh học; năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn; các trung tâm R&D; và mô hình Trung tâm tài chính quốc tế, Khu thương mại tự do.
Song song, Việt Nam sẽ nâng cấp hạ tầng logistics, năng lượng, khu công nghiệp theo hướng xanh và thông minh; cải cách thủ tục đầu tư; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư trọng điểm vào các tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ và năng lượng sạch.
Dòng vốn hơn 31,5 tỷ USD không chỉ tạo ra động lực tăng trưởng ngắn hạn. Đó là tín hiệu cho thấy một kỷ nguyên FDI mới đang mở ra, nơi Việt Nam không chỉ thu hút vốn, mà đang trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.
Chuyển từ “mở cửa thụ động” sang chủ động chọn đối tác
Trao đổi với Doanh nghiệp & Kinh tế xanh, PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế cho biết, Việt Nam muốn lên nước phát triển năm 2045 thì không thể tiếp tục “bán rẻ ưu đãi thuế” mà phải “mua” được công nghệ, năng suất và năng lực nội sinh.
Trọng tâm chiến lược nên chuyển mạnh sang chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh, ổn định vĩ mô, dự báo được lạm phát thấp, nợ công an toàn, chính sách nhất quán. Cắt giảm chi phí không chính thức, đơn giản hóa thủ tục, thực thi hợp đồng – giải quyết tranh chấp nhanh, minh bạch. Nâng chuẩn bảo hộ nhà đầu tư, xử lý tranh chấp theo thông lệ quốc tế, tòa án/thụ lý trọng tài hiệu quả.
Bên cạnh đó, hạ tầng cứng, hạ tầng số, năng lượng xanh, ưu tiên FDI gắn với các cực tăng trưởng, hành lang kinh tế, cảng biển – logistics, đô thị sân bay. Cam kết cung cấp điện ổn định, xanh, giá cạnh tranh cho nhà đầu tư chiến lược (RE, LNG, lưới thông minh). Hạ tầng số (data center, cloud, 5G) và bảo vệ dữ liệu là “ưu đãi mới” hấp dẫn hơn miễn giảm thuế.
Nhân lực chất lượng cao và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, dịch chuyển từ “lao động rẻ” sang kỹ sư, chuyên gia, quản trị trung – cao cấp, đào tạo theo đơn đặt hàng FDI. Phát triển cụm đại học – viện nghiên cứu – trung tâm R&D, quỹ đổi mới sáng tạo, sandbox cho công nghệ mới. Thu hút FDI có trung tâm R&D, chuyển giao công nghệ, chương trình đào tạo kép với doanh nghiệp Việt.
Liên kết chuỗi giá trị và nâng tỉ lệ nội địa hóa, gắn ưu đãi với nghĩa vụ nội địa hóa, chuyển giao công nghệ, tỉ lệ mua hàng từ doanh nghiệp Việt. Phát triển doanh nghiệp nội địa đủ chuẩn tham gia chuỗi cung ứng: hỗ trợ tiêu chuẩn, tín dụng, số hóa; Ưu tiên dự án nâng Việt Nam lên nấc thang mới trong chuỗi: thiết kế, R&D, dịch vụ hậu mãi, logistics giá trị cao.
FDI xanh, số, tri thức – thay vì FDI thâm dụng tài nguyên, lao động rẻ, lọc dự án theo tiêu chí phát thải, tiêu hao tài nguyên, đóng góp chuyển dịch xanh, kinh tế tuần hoàn. Ưu tiên FDI trong bán dẫn, AI, điện tử, kinh tế số, dịch vụ tài chính – logistics cao cấp, công nghệ y sinh. Ràng buộc trách nhiệm xã hội, lao động, môi trường; gắn FDI với mục tiêu Net Zero 2050.
“Quản trị FDI “thế hệ mới”, chuyển từ “mở cửa thụ động” sang chủ động chọn đối tác, chọn ngành, chọn địa bàn; Thiết lập đơn vị “nhà đầu tư chiến lược” có cơ chế một cửa, KPI về thời gian xử lý, tỷ lệ dự án thực hiện. Đánh giá FDI không chỉ bằng vốn đăng ký, mà bằng năng suất lao động, giá trị gia tăng, công nghệ, liên kết và đóng góp ngân sách thực”, chuyên gia Ngô Trí Long nhấn mạnh.
Cũng theo chuyên gia Ngô Trí Long, thay vì cạnh tranh bằng ưu đãi thuế, Việt Nam phải cạnh tranh bằng thể chế tốt, hạ tầng hiện đại, nhân lực chất lượng cao, năng lượng xanh và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, biến FDI thành động lực nâng cấp cấu trúc kinh tế, không chỉ là thêm vốn đầu tư.
Dự báo về dòng vốn FDI thời gian tới, theo ông Long, bối cảnh toàn cầu, FDI thế giới suy giảm, Việt Nam “ngược dòng nhưng không miễn nhiễm rủi ro”.
“Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) ghi nhận FDI toàn cầu giảm 11% năm 2024, tiếp tục giảm thêm 3% nửa đầu 2025 do lãi suất cao, xung đột địa chính trị, chiến tranh thuế quan. Điều này có nghĩa là tổng “miếng bánh” FDI toàn cầu nhỏ lại, nhưng phần của Việt Nam trong “miếng bánh” đó có thể tăng lên nếu cải cách thể chế, hạ tầng và nhân lực đi đúng tốc độ”, PGS. TS Ngô Trí Long nói.
“Với giả định ổn định vĩ mô, cải cách thủ tục – đất đai – điện năng – hạ tầng số được đẩy nhanh, tôi dự báo, giải ngân FDI có thể đạt 32–35 tỷ USD/năm giai đoạn 2026–2027, hướng tới 35–40 tỷ USD/năm sau 2030. Hiện các báo cáo ngân hàng trong nước cũng đánh giá “giải ngân FDI sẽ duy trì đà tăng ổn định” trong 2026. Tỷ trọng FDI trong các ngành công nghệ cao, xanh, dịch vụ hiện đại sẽ tăng nhanh, trở thành “xương sống” xuất khẩu và động lực cho mục tiêu tăng trưởng GDP 8–10% năm 2026 như một số dự báo lạc quan gần đây”, ông Ngô Trí Long nhấn mạnh.