Đây được xem là quyết định lịch sử, vào thời điểm đã “chín muồi” đối với dự án đặc biệt quan trọng của đất nước, với tổng mức đầu tư rất lớn và hội tụ hàm lượng khoa học, công nghệ cao, tác động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

“Đây không chỉ là một công trình giao thông mà còn là biểu tượng của khát vọng, tinh thần đổi mới và hành động quyết liệt, sẵn sàng vượt qua thách thức để mở ra cơ hội lớn cho đất nước”.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn

Theo đánh giá của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam theo hình thức đầu tư công là minh chứng rõ ràng cho tư duy đổi mới trong phát triển hạ tầng quốc gia, không tiếp cận đơn lẻ, cục bộ mà được hoạch định trên góc nhìn tổng thể, kết hợp hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.

“Đây không chỉ là một công trình giao thông mà còn là biểu tượng của khát vọng, tinh thần đổi mới và hành động quyết liệt, sẵn sàng vượt qua thách thức để mở ra cơ hội lớn cho đất nước”, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn - Ảnh Media Quốc hội

18 năm chờ đợi

Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam bắt đầu tại TP.Hà Nội (ga Ngọc Hồi) và kết thúc tại TP.HCM (ga Thủ Thiêm) với chiều dài tuyến khoảng 1.541km, tốc độ thiết kế 350km/h, rút ngắn thời gian di chuyển từ Hà Nội - TP.HCM còn khoảng 5 giờ 30 phút.

Ý tưởng về việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam đã được nhen nhóm từ năm 2007 khi Chính phủ phê duyệt danh mục đầu tư một số dự án kết cấu hạ tầng giao thông thiết yếu, trong đó có dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam.

Năm 2010, sau hai lần trình báo cáo nghiên cứu, dự thảo về tuyến đường sắt mới dài 1.570 km, đường đôi khổ 1.435 mm, tốc độ 350 km/h, chuyên chở khách đã được trình Quốc hội nhưng không được thông qua do điều kiện kinh tế chưa phù hợp (chi phí đầu tư lên đến 56 tỷ USD, tương đương 38% GDP năm 2010).

Phải đến 14 năm sau, dự án mới một lần nữa được trình Quốc hội và chính thức được thông qua với thời gian thực hiện dự kiến từ năm 2027 đến năm 2035. Trước đó, tại Hội nghị Trung ương khóa 10 diễn ra vào tháng 9/2024, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.

Là người trực tiếp tham gia nghiên cứu dự án cùng các cơ quan của Bộ Giao thông Vận tải, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Danh Huy chia sẻ: “Tôi rất xúc động khi Quốc hội thống nhất chủ trương đầu tư dự án. Đây là niềm vui lớn không chỉ đối với ngành Giao thông Vận tải mà còn đáp ứng sự mong mỏi, từ nhiều năm nay của cử tri, người dân trên cả nước”.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy, Bộ Giao thông Vận tải đã dự báo nhu cầu vận tải và thấy rằng thời điểm này thích hợp, cần thiết để xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam nhằm tái cơ cấu lại thị phần vận tải một cách thích hợp.

Bên cạnh đó, đến năm 2023, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng gấp gần 3 lần so với 2010, đạt 430 tỷ USD. Dự kiến thời điểm triển khai xây dựng vào năm 2027, quy mô nền kinh tế ước đạt 564 tỷ USD. Nếu Nhà nước bố trí vốn trong khoảng 12 năm (từ 2027 đến 2035) thì mỗi năm bình quân khoảng 5,6 tỷ USD, tương đương 1% GDP. Do đó, nguồn lực đầu tư không còn là trở ngại lớn như thời điểm năm 2010.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương - Ảnh Media Quốc hội

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cũng khẳng định: “Hiện tại đã là thời điểm ‘chín muồi’ để triển khai dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam khi đã có đầy đủ cơ sở thực hiện dự án. Đó là mong muốn của người dân, sự quyết tâm của hệ thống chính trị, thể hiện tiềm lực, vị thế về kinh tế, cũng như là đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”.

Kỳ vọng tạo sức bật cho nền kinh tế

Với vai trò là tuyến huyết mạch quan trọng nhất cả nước, kết nối 20 tỉnh, thành phố với hơn 49% dân số, 40% khu công nghiệp, 55% cảng biển lớn và 67% khu kinh tế ven biển, Bộ Giao thông vận tải nhận định tuyến đường sắt tốc độ cao khi được hình thành sẽ rút ngắn khoảng cách giữa các địa phương, kết nối thị trường và mở ra hành lang kinh tế Đông - Tây, các cực tăng trưởng để tạo động lực lan tỏa phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ở góc độ kinh tế, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho biết, qua đánh giá sơ bộ, mức chi đầu tư khoảng 67,34 tỷ USD cho tuyến đường sắt tốc độ cao từ nay đến năm 2035 sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế trong suốt thời gian thi công dự án, cụ thể sẽ làm tăng khoảng 0,97 điểm % GDP mỗi năm so với không đầu tư dự án.

“Hiện tại đã là thời điểm ‘chín muồi’ để triển khai dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam khi đã có đầy đủ cơ sở thực hiện dự án. Đó là mong muốn của người dân, sự quyết tâm của hệ thống chính trị, thể hiện tiềm lực, vị thế về kinh tế, cũng như là đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới".

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng nêu rõ, công trình này có tác động trực tiếp đến khoảng 7-8 lĩnh vực. Đầu tiên là tác động đến ngành xây dựng trong cơ cấu GDP bởi vì đây là công trình xây lắp.

Tiếp đến là tác động đến các ngành phụ trợ phục vụ cho công trình, như ngành cung cấp vật liệu cho xây dựng công trình, kể cả các vật liệu thông thường như cát, đá, sỏi hay vật liệu đặc chủng như sắt, thép để làm đường ray hoặc các công trình khác. Đồng thời, tác động đến các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng hay dịch vụ về huy động vốn.

Cùng với đó là tác động lan tỏa đến phát triển đô thị. Tuyến đường tạo ra hơn 20 ga từ Bắc vào Nam. Trong định hướng phát triển tuyến đường sắt, mỗi ga đều có các khu đô thị đi kèm mà việc phát triển đô thị được xác định là một động lực của nền kinh tế. Vì thế, đây là một động lực rất tốt để phát triển kinh tế - xã hội.

Đặc biệt, sau khi dự án được đưa vào sử dụng sẽ tác động mạnh đến các ngành khai thác, nhất là là dịch vụ du lịch. Với quy mô cực lớn, dự án cũng sẽ tạo công ăn việc làm cho một khối lượng lớn người dân khi huy động lực lượng tham gia vào xây dựng và vận hành công trình này.

Cuối cùng là sẽ tác động đến tăng trưởng của ngành vận tải, để hướng tới hiện đại hóa hệ thống giao thông vận tải, tăng thêm doanh số, năng suất, công suất phục vụ.

“Khi dự án đi vào vận hành, khai thác sẽ làm gia tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là giảm chi phí logistics, góp phần đáng kể cho phát triển các ngành công nghiệp, ngành sản xuất kinh doanh có sử dụng đến tuyến đường sắt này”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương khẳng định.

Cơ hội “thay da đổi thịt” với doanh nghiệp trong nước

Có thể thấy, dù mức chi đầu tư lớn nhưng dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đang được kỳ vọng tạo tác động to lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội mà trước hết là ngành xây dựng.

Theo Bộ Giao thông Vận tải, ngay ở giai đoạn đầu tư, tuyến đường sắt tốc độ cao ước tính tạo ra thị trường xây dựng với giá trị khoảng 33,5 tỷ USD; nếu tính cả hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị sẽ tạo ra thị trường xây dựng khoảng 75,6 tỷ USD; phương tiện, thiết bị khoảng 34,1 tỷ USD và hàng triệu việc làm.

Trong một báo cáo đánh giá về tác động của dự án này với các doanh nghiệp trong nước, Công ty Chứng khoán Yuanta Vietnam cho rằng bên cạnh các doanh nghiệp vật liệu xây dựng, nhất là sắt thép được hưởng lợi thì các nhà thầu xây dựng cũng sẽ có nhiều tiềm năng tham gia dự án.

“Tham gia dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam có thể là cơ hội ‘thay da đổi thịt’ đối với các nhà thầu xây dựng trong nước”.

Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam

Dù nhận định tổng thầu và tư vấn của dự án đường sắt tốc độ cao nhiều khả năng là doanh nghiệp nước ngoài nhưng Chứng khoán Yuanta Vietnam dự báo các nhà thầu trong nước như Công ty CP Xây dựng Coteccons, Công ty CP Fecon, Công ty CP Tập đoàn Cienco4, Tổng CTCP Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam và Công ty CP Đầu tư Hạ tầng Giao thông Đèo Cả,… vẫn có thể giành lấy các hợp đồng thầu phụ.

Thực tế, thời gian gần đây các nhà thầu trong nước cũng đang ráo riết chuẩn bị các nguồn lực bao gồm cả các thiết bị, công nghệ mới cũng như nhân lực để đón đầu thời cơ từ “siêu dự án”.

“Tham gia dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam có thể là cơ hội ‘thay da đổi thịt’ đối với các nhà thầu xây dựng trong nước”, ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam khẳng định và cho rằng, nếu đánh giá hệ thống đường sắt tốc độ cao vẫn là cầu hầm, vẫn là cầu dây văng thì thời gian qua, các nhà thầu Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, có thể thực hiện được tất cả những công trình trên.

Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam - Ảnh Tạ Hải

Tuy nhiên, theo ông Hiệp với dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam có tốc độ 350km/h, độ chính xác liên quan đến tốc độ đòi hỏi mức độ khác hơn về công nghệ. Vì vậy, các nhà thầu Việt Nam cần ý thức đây là một trận địa công nghệ mới cần học hỏi, tiếp thu các kiến thức tiên tiến nhất về xây dựng để ứng dụng. Cùng với đó, các doanh nghiệp cần phải giải được bài toán về nguồn nhân lực bởi bên cạnh trở ngại về nguồn vốn, công nghệ và kỹ thuật thì đội ngũ chuyên gia, kỹ sư và lao động thi công trực tiếp hiện đang rất thiếu.

Dẫu biết, việc triển khai dự án đường sắt tốc độ cao vẫn còn là một hành trình dài với nhiều thách thức nhưng với quyết tâm của Bộ Chính trị “xác định đây là nhiệm vụ chính trị và ưu tiên nguồn lực đầu tư thực hiện sớm” như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định trong bài phát biểu kết luận Hội nghị Trung ương khóa 10, có thể tin tưởng rằng “giấc mơ thế kỷ” này sẽ sớm trở thành hiện thực.