Chất lượng tài sản toàn ngành ngân hàng được kỳ vọng tiếp tục cải thiện trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng tốt, áp lực từ nợ xấu giảm đáng kể.
Báo cáo của Vienam Report cho biết, nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại đã đạt đỉnh vào quý III/2023 và đã được kìm hãm một phần khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN được ban hành.
Sang năm 2024, nợ xấu bắt đầu hạ nhiệt khi các khoản nợ được cơ cấu, mặt bằng lãi suất ổn định ở mức thấp, và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phục hồi, tỷ lệ nợ xấu quanh mức 1,93-2,22%. Tỷ lệ nợ nhóm 2-5 (nợ cần chú ý và nợ xấu) có xu hướng giảm rõ rệt, từ mức đỉnh 4,72% trong quý II/2023 xuống 3,57% vào quý IV/2024 và 3,75% vào quý I/2025, cho thấy áp lực chuyển nhóm nợ đã được kiểm soát phần nào. Nợ nhóm 3, 4 (nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ) cũng có xu hướng dao động nhưng không vượt qua mức đỉnh của năm 2023.
Toàn ngành là vậy nhưng nợ xấu vẫn cần lưu ý ở một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 4% và cá biệt khi ghi nhận ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 14% vào quý I/2025, mặc dù con số này đã giảm từ 35,3% vào quý I/2024. Xét trên giá trị, tổng nợ xấu các ngân hàng thương mại đã vượt 300 nghìn tỷ đồng vào cuối quý I/2025, tăng 16,8% so với cùng kỳ 2024 và tăng 13,4% so với đầu năm.
Vienam Report đánh giá, rủi ro tiềm ẩn vẫn tồn tại, đặc biệt khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN hết hiệu lực từ ngày 01/01/2025, có thể dẫn đến việc một số khoản nợ tái cơ cấu không còn được hưởng chính sách và buộc phải phân loại lại vào nhóm nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu trong quý đầu năm 2025 đã tăng nhẹ so với quý trước đó, nhưng cơ cấu các nhóm trong nợ xấu lại có sự chuyển biến rõ rệt, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) đã đạt kỷ lục chiếm 1,25% tổng dư nợ cho vay khách hàng, trên 176 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với đầu năm và cao hơn con số tổng nợ xấu vào cuối năm 2022 (các ngân hàng thương mại không công bố báo cáo tài chính quý I/2025 được sử dụng số liệu dư nợ của năm 2024).
Dù vậy, mức độ gia tăng nợ xấu dự báo sẽ ở mức vừa phải và trong tầm kiểm soát, nhờ các ngân hàng đã chủ động trích lập dự phòng bổ sung một cách thận trọng cho các khoản nợ tiềm ẩn rủi ro.

Tổng dự phòng rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại trong quý I/2025 là 253 nghìn tỷ đồng, bao phủ 84,4% nợ xấu. Chi phí trích lập đã lên tới 163,2 nghìn tỷ vào năm 2024, tăng 13,1% so với năm trước đó. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của các ngân hàng thương mại đã tương đối ổn định, tuy nhiên con số đã giảm xuống dưới 100% kể từ quý III/2023 và hiện vẫn chưa phục hồi hoàn toàn để đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận kế hoạch.
Bộ đệm dự phòng cũng có sự phân hóa rõ rệt giữa các nhóm có quy mô khác nhau. Các ngân hàng thương mại có quy mô tài sản trên 1 triệu tỷ luôn có đủ nguồn lực trích lập dự phòng, LLR luôn trên 125% dù không tránh khỏi xu hướng suy giảm. Ở nhóm quy mô dưới 300 nghìn tỷ đồng, LLR hoàn toàn trái ngược, đã xuống dưới 40% từ năm 2023, đi qua vùng đáy 29% vào quý II/2024 và hiện đã tăng 38%.
Khi hàng trăm nghìn tỷ nợ xấu được xử lý, đó sẽ là dòng tiền quay trở lại thị trường cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Để làm được điều này không chỉ chờ các doanh nghiệp tự xoay xở trong khủng hoảng mà cần sự tham gia của các bên liên quan.
Trong giai đoạn 2017-2023, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD từng mở ra một cơ chế đặc thù, giúp TCTD xử lý tài sản nhanh chóng và hiệu quả hơn. Nhưng khi Nghị quyết hết hiệu lực, các TCTD đã không còn cơ chế chủ động thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ. Trong khi đó, Luật các TCTD 2024 chưa kế thừa nội dung quan trọng này. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã lấy ý kiến các bên để dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 2024. Những cơ chế đặc thù giúp các TCTD xử lý nợ xấu được kỳ vọng sớm ban hành trong thời gian tới sẽ hoàn thiện hơn khung pháp lý, giảm bớt áp lực trích lập dự phòng, luân chuyển dòng vốn quay trở lại thị trường.