Khoảng trống về thu hút FDI công nghệ cao
Theo báo cáo đầu tư toàn cầu 2025 của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á năm 2024 đạt 605 tỷ USD, giảm 3% so với năm trước. Dù vậy, khu vực này vẫn chiếm 40% tổng FDI toàn cầu và 70% dòng vốn vào các nước đang phát triển. Đáng chú ý, ASEAN là một “điểm nóng” khi thu hút 225 tỷ USD FDI, tăng 10% so với năm 2023, trong đó Việt Nam nằm trong nhóm các nền kinh tế nhận vốn lớn nhất.
Tại Việt Nam, theo số liệu Cục Đầu tư nước ngoài, tổng vốn FDI đăng ký năm 2024 đạt 38,23 tỷ USD, giải ngân 25,35 tỷ USD – mức cao nhất từ trước đến nay. Trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam đã thu hút thêm 31,52 tỷ USD vốn FDI đăng ký, tăng 15,6% so với cùng kỳ; vốn thực hiện ước đạt 21,3 tỷ USD – mức cao nhất của 10 tháng trong 5 năm qua.
Trong cơ cấu FDI, vốn vào lĩnh vực chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chi phối, chiếm 56,7% tổng vốn đăng ký cấp mới và tới 83% tổng vốn giải ngân trong 10 tháng năm 2025.
Ông John Michael Campbell, Giám đốc Bộ phận Dịch vụ Bất động sản Công nghiệp Savills Việt Nam cho rằng, vốn FDI vào Việt Nam tăng trưởng tích cực, trong đó, vốn vào lĩnh vực sản xuất - chế biến vẫn chiếm tỷ trọng lớn phản ánh xu hướng dịch chuyển sang các ngành giá trị cao như điện tử, thiết bị công nghệ và bán dẫn. Đây là yếu tố quan trọng giữ vững sức hút của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu còn nhiều biến động.
Thực tế, trong những năm qua sự hiện diện của các “đại bàng” như Samsung, LG, Intel, Foxconn, Qualcomm … đã tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh, kéo theo nhiều nhà đầu tư công nghệ cao khác, hình thành chuỗi liên kết ngày càng chặt chẽ tại Việt Nam.
Số liệu giai đoạn 2015-2024 cho thấy, ngành chế biến, chế tạo liên tục dẫn đầu thu hút FDI, chiếm 50–80% tổng vốn đăng ký. Nhiều dự án tỷ USD trong lĩnh vực điện tử, bán dẫn, năng lượng tái tạo, công nghệ cao đã và đang đổ vào Việt Nam, góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên bản đồ công nghệ thế giới.
Dù vậy, nếu soi riêng vào tỷ trọng FDI công nghệ cao, bức tranh vẫn còn khoảng trống lớn. Tại một diễn đàn hồi tháng 4/2025, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung cho biết, vốn FDI vào lĩnh vực công nghệ cao mới chiếm khoảng 5% tổng FDI vào Việt Nam, một con số được đánh giá là chưa tương xứng với kỳ vọng. Ông cho rằng Việt Nam không thể tiếp tục cạnh tranh bằng lao động giá rẻ hay chi phí năng lượng thấp mà cần chuyển sang giai đoạn thu hút đầu tư có chọn lọc, ưu tiên những ngành có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng nhân lực chất lượng và góp phần nâng cấp chuỗi giá trị.
Song để đi từ 5% lên một tỷ trọng đủ tạo đột phá, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư. Điều này bao gồm ba vấn đề, thứ nhất nâng cấp hạ tầng kỹ thuật và logistics; thứ hai, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, và thứ ba, cải cách chính sách ưu đãi đầu tư, đặc biệt đối với các lĩnh vực mới như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), năng lượng sạch.
Giữ “ưu đãi cao nhất” – chìa khóa để hút FDI công nghệ cao
Trước ngưỡng cửa một làn sóng FDI thế hệ mới, khung khổ pháp lý là mối quan tâm hàng đầu của cả nhà nước và nhà đầu tư. Dự thảo Luật Công nghệ cao sửa đổi đang được trình và thảo luận tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XV được kỳ vọng sẽ tạo hành lang pháp lý minh bạch, ổn định và hấp dẫn cho đầu tư, sản xuất - kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao; đặc biệt là thể chế hóa Nghị quyết 57-NQ/TW nhằm tạo đột phá trong phát triển công nghệ cao, nhất là trong một số lĩnh vực công nghệ chiến lược.
Tuy nhiên, một số quy định về chính sách ưu đãi phát triển công nghệ cao đang khiến không ít đại biểu băn khoăn, bởi có thể ảnh hưởng đến thu hút FDI vào Việt Nam. Cụ thể, dự thảo quy định, doanh nghiệp công nghệ cao được hưởng ưu đãi, hỗ trợ “theo quy định của pháp luật”, bao gồm ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng và từ quỹ hỗ trợ đầu tư.
Các đại biểu cho rằng nếu chỉ quy định ưu đãi, hỗ trợ hay ưu tiên “theo quy định của pháp luật” thì không cần thiết phải đưa vào luật, thay vào đó, cần có chính sách ưu đãi vượt trội để thực sự tạo động lực thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển công nghệ cao và quy định ngay trong luật.
Thẩm tra dự thảo, Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng đề nghị, luật sửa đổi phải trên cơ sở kế thừa quy định hiện hành, theo đó thể hiện rõ mức “ưu đãi cao nhất” với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ chiến lược, qua đó tạo đột phá cho phát triển công nghệ cao, nâng cao trình độ công nghệ theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW.
Theo khoản 2, Điều 18, Luật Công nghệ cao hiện hành, doanh nghiệp công nghệ cao “được hưởng mức ưu đãi cao nhất” theo quy định của pháp luật về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu.
Chẳng hạn, với ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà đầu tư trong lĩnh vực này được miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo, với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được hưởng là 10% trong 15 năm, thậm chí ưu đãi còn cao hơn, thời hạn dài hơn, nếu là trường hợp ưu đãi đầu tư đặc biệt.
Trong khi đó, luật sửa đổi đề xuất phân loại doanh nghiệp thành mức 1 (vốn nội địa trên 30%, ưu đãi cao nhất: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm, giảm 50% trong 9 năm, thuế suất 10% trong 15 năm) và mức 2 (chủ yếu FDI 100% vốn nước ngoài, ưu đãi thấp hơn: miễn 2 năm, giảm 50% trong 4 năm, thuế suất 15%). Với cách phân loại này, phần lớn doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam sẽ không đáp ứng được tiêu chí “mức 1”, do đa số hoạt động dưới hình thức 100% vốn nước ngoài.
Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đánh giá quy định này có thể tạo ra “sự phân biệt” giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Bởi lẽ, các doanh nghiệp có 70% vốn FDI, dù đáp ứng được các tiêu chí về doanh nghiệp công nghệ cao, thì cũng chỉ có thể được xếp ở mức 2, dẫn đến được hưởng ưu đãi khác nhau. Do đó, Ủy ban đã đề nghị ban soạn thảo xem xét, nghiên cứu và chỉnh lý để đảm bảo tính công bằng, hợp lý và ổn định chính sách.

Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên 2025, đề cập đến vấn đề sửa đổi Luật Công nghệ cao ông Ko Tae Yeon, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (Kocham) cho biết: “Nếu việc sửa đổi dẫn tới thu hẹp phạm vi ưu đãi hoặc làm suy giảm năng lực cạnh tranh trong hoạt động đầu tư, điều đó có thể gây tác động tiêu cực đến các mục tiêu phát triển trung và dài hạn của Việt Nam, bao gồm mở rộng đầu tư, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao”. Do đó, ông nhấn mạnh rằng, cần phải đảm bảo việc sửa đổi Luật Công nghệ cao không làm suy giảm động lực của các doanh nghiệp FDI.
Một số chuyên gia nhận định giữ ưu đãi cao nhất cho FDI công nghệ cao không phải là "chảy máu ngân sách" mà là đầu tư chiến lược cho tương lai. Bởi các tập đoàn đa quốc gia không chỉ mang vốn mà còn công nghệ lõi, tiêu chuẩn quản trị và cơ hội lan tỏa cho doanh nghiệp nội địa.
Vì vậy, việc duy trì mức miễn thuế 4 năm, giảm 50% trong 9 năm và thuế suất 10% trong 15 năm, thậm chí cao hơn với ưu đãi đặc biệt, sẽ khuyến khích FDI cam kết nội địa hóa, hợp tác nghiên cứu và đào tạo nhân lực, giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số và trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
Tại nghị trường Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng khi phát biểu làm rõ ý kiến của các đại biểu cũng đã nhấn mạnh, các cơ chế, chính sách đối với công nghệ cao tại luật hiện hành sẽ tiếp tục được duy trì và sẽ tăng thêm các ưu đãi nếu doanh nghiệp FDI tăng tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao công nghệ và có hoạt động R&D tại Việt Nam.