Công ty bất động sản đang tìm bước ủy quyền tái cơ cấu không đúng luật?

Như Quốc hội không thể ủy quyền cho Chính phủ ban hành luật, ĐHĐCĐ không thể ủy quyền cho HĐQT quyết định các vấn đề trọng yếu, theo ý kiến của một luật sư.
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ĐHĐCĐ và HĐQT không phải là cá nhân hay pháp nhân, không thể ủy quyền cho nhau (Hình minh họa)
ĐHĐCĐ và HĐQT không phải là cá nhân hay pháp nhân, không thể ủy quyền cho nhau (Hình minh họa)

Việc lấy ý kiến cổ đông để ủy quyền cho hội đồng quản trị (HĐQT) quyết định tái cơ cấu tại một tập đoàn bất động sản lớn đang thu hút sự chú ý trên thị trường.

Theo thông tin công bố, HĐQT tập đoàn này có nghị quyết về việc lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản về một số vấn đề, trong đó có việc ủy quyền cho HĐQT quyết định tái cấu trúc công ty gồm phát hành mới cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi, các công cụ khác để tăng vốn, tái cấu trúc tài chính (bao gồm cả hoán đổi nợ thành cổ phần, hoán đổi nợ thành cổ phiếu hoặc tài sản).

Cùng đó, ủy quyền cho HĐQT thương lượng, quyết định điều chỉnh các điều kiện, nội dung liên quan đến các khoản huy động vốn, cơ cấu lại các khoản huy động vốn đã thực hiện.

Chúng tôi nhận được ý kiến của một luật sư tại TP.HCM cho rằng, việc đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) ủy quyền cho HĐQT các nội dung như trên là không phù hợp pháp luật, không bảo đảm quyền của cổ đông.

Không được ủy quyền và các điểm pháp lý

Theo luật sư này, ĐHĐCĐ phải tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, không thể ủy quyền cho HĐQT. Và các quy định hiện hành được dẫn ra.

Điều 138 Luật Doanh nghiệp quy định về quyền và nghĩa vụ của ĐHĐCĐ:

1.ĐHĐCĐ gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần.

2. ĐHĐCĐ có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Thông qua định hướng phát triển của công ty;

b) Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần;

c) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên;

d) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác;

đ) Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;

e) Thông qua báo cáo tài chính hằng năm;

g) Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại;

h) Xem xét, xử lý vi phạm của thành viên HĐQT, Kiểm soát viên gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty;

i) Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty;

k) Quyết định ngân sách hoặc tổng mức thù lao, thưởng và lợi ích khác cho HĐQT, Ban kiểm soát;

l) Phê duyệt quy chế quản trị nội bộ; quy chế hoạt động HĐQT, Ban kiểm soát;

m) Phê duyệt danh sách công ty kiểm toán độc lập; quyết định công ty kiểm toán độc lập thực hiện kiểm tra hoạt động của công ty, bãi miễn kiểm toán viên độc lập khi xét thấy cần thiết;

n) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

Điều 139 Luật doanh nghiệp quy định về cuộc họp ĐHĐCĐ:

1. ĐHĐCĐ họp thường niên mỗi năm một lần. Ngoài cuộc họp thường niên, ĐHĐCĐ có thể họp bất thường. Địa điểm họp ĐHĐCĐ được xác định là nơi chủ tọa tham dự họp và phải ở trên lãnh thổ Việt Nam.

2. ĐHĐCĐ phải họp thường niên trong thời hạn 04 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác, HĐQT quyết định gia hạn họp ĐHĐCĐ thường niên trong trường hợp cần thiết, nhưng không quá 06 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính.

3. ĐHĐCĐ thường niên thảo luận và thông qua các vấn đề sau đây:

a) Kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty;

b) Báo cáo tài chính hằng năm;

c) Báo cáo của HĐQT về quản trị và kết quả hoạt động của HĐQT và từng thành viên HĐQT;

d) Báo cáo của Ban kiểm soát về kết quả kinh doanh của công ty, kết quả hoạt động của HĐQT, giám đốc hoặc tổng giám đốc;

đ) Báo cáo tự đánh giá kết quả hoạt động của Ban kiểm soát và kiểm soát viên;

e) Mức cổ tức đối với mỗi cổ phần của từng loại;

g) Vấn đề khác thuộc thẩm quyền.

Khoản 3, Khoản 4 Điều 167 Luật Doanh nghiệp quy định:

3. ĐHĐCĐ chấp thuận hợp đồng, giao dịch sau đây:

a) Hợp đồng, giao dịch khác ngoài hợp đồng, giao dịch quy định tại khoản 2 Điều này;

b) Hợp đồng, giao dịch vay, cho vay, bán tài sản có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất giữa công ty và cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên hoặc người có liên quan của cổ đông đó.

4. Trường hợp chấp thuận hợp đồng, giao dịch theo quy định tại khoản 3 Điều này, người đại diện công ty ký hợp đồng, giao dịch phải thông báo cho HĐQT và kiểm soát viên về đối tượng có liên quan đối với hợp đồng, giao dịch đó và gửi kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc thông báo nội dung chủ yếu của giao dịch. HĐQT trình dự thảo hợp đồng, giao dịch hoặc giải trình về nội dung chủ yếu của hợp đồng, giao dịch tại cuộc họp ĐHĐCĐ hoặc lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản. Trường hợp này, cổ đông có lợi ích liên quan đến các bên trong hợp đồng, giao dịch không có quyền biểu quyết; hợp đồng, giao dịch được chấp thuận theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 148 của Luật này, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.

Theo ý kiến của luật sư nói trên, các nội dung trên vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của ĐHĐCĐ. Là nghĩa vụ, ĐHĐCĐ không thể ủy quyền cho HĐQT, không có quy định nào cho phép ĐHĐCĐ ủy quyền cho HĐQT.

“Tương tự như Quốc hội là cơ quan lập pháp có quyền và nghĩa vụ ban hành luật thì không thể ủy quyền cho Chính Phủ, là cơ quan hành pháp, ban hành luật”, vị luật sư trên so sánh.

Mặt khác, ĐHĐCĐ và HĐQT không phải là pháp nhân độc lập, mà là từng cấp có thẩm quyền riêng biệt trong một công ty. Việc tách biệt quyền và nghĩa vụ của từng cấp riêng biệt đã được Luật doanh nghiệp quy định nhằm đảm bảo cho công ty được quản trị minh bạch, bảo vệ quyền của các cổ đông.

Ủy quyền là việc thỏa thuận của các bên theo đó bên được ủy quyền sẽ có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền.

Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

ĐHĐCĐ và HĐQT không phải là cá nhân hay pháp nhân, không thể ủy quyền cho nhau.

Ảnh hưởng quyền của cổ đông

Bên cạnh các điểm pháp lý nói trên, ý kiến luật sư còn cho rằng việc ĐHĐCĐ ủy quyền cho HĐQT làm ảnh hưởng đến quyền của cổ đông.

Một trong những quyền cơ bản của cổ đông là tham dự, phát biểu và biểu quyết tại ĐHĐCĐ.

Khi tổ chức ĐHĐCĐ, người triệu tập họp phải thực hiện việc công bố thông tin, gửi trước tài liệu, chốt danh sách theo trình tự chặt chẽ pháp luật đã quy định.

Nếu ĐHĐCĐ ủy quyền cho HĐQT, thì bản chất cuộc họp HĐQT là cuộc họp ĐHĐCĐ, các cổ đông sẽ không được thông báo trước về các nội dung họp, mất quyền tham dự, phát biểu, biểu quyết tại đại hội, đặc biệt là các cổ đông không đồng ý ủy quyền cho HĐQT.

Ý kiến của luật sư trên phân tích rằng, ĐHĐCĐ quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình theo số phiếu biểu quyết, tương ứng với số cổ phần sở hữu. HĐQT quyết định theo số phiếu của từng thành viên, thậm chí có những thành viên không phải là cổ đông, quyết định của HĐQT không thể hiện ý chí của ĐHĐCĐ.

Cùng với những ý kiến trên, trong thông tin gửi tới chúng tôi, vị luật sư từ TP.HCM dẫn lại một thực tế từ động thái chấn chỉnh của cơ quan quản lý thời gian qua.

Cụ thể, ngày 23/2/2022, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có quan điểm về việc này bằng công văn số 913/UBCKNN-GSĐC, trong đó nêu rõ: ĐHĐCĐ của một công ty cổ phần đại chúng không được ủy quyền cho HĐQT quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ theo Điều 138.2 và Điều 167.4 Luật Doanh Nghiệp 2020.

Công văn 913 cũng nêu thêm thông tin: Hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Chứng khoán năm 2019, Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn liên quan đã quy định rất rõ các nội dung áp dụng đối với các công ty đại chúng. Tuy nhiên, qua công tác giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho thấy rất nhiều công ty đại chúng còn chưa thực hiện đúng các nội dung thuộc thẩm quyền thông qua của ĐHĐCĐ.

Cụ thể, đối với các nội dung thuộc thẩm quyền thông qua của ĐHĐCĐ theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2020, hiện tại có một số công ty đại chúng đang có nghị quyết ĐHĐCĐ ủy quyền cho HĐQT toàn quyền quyết định đối với các nội dung thuộc thẩm quyền thông qua của ĐHĐCĐ là chưa phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2020.

Đối với các hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền chấp thuận của ĐHĐCĐ: Hiện tại có một số công ty đại chúng đang có nghị quỵết ĐHĐCĐ ủy quyền cho HĐQT chấp thuận các hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền chấp thuận của ĐHĐCĐ mà không trình dự thảo hợp đồng, giao dịch tại cuộc họp ĐHĐCĐ là chưa phù hợp theo quy định tại khoản 4 Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2020.

Đối với Điều lệ công ty: Hiện tại nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của HĐQT quy định tại Điều lệ công ty của nhiều công ty đại chúng chưa phù hợp theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 153 Luật Doanh nghiệp 2020.

Trường hợp, các nội dung thuộc thẩm quyền thông qua của ĐHĐCĐ không được thực hiện đúng theo quy định nêu tại khoản 2 Điều 138 và Điều 167 Luật Doanh nghiệp năm 2020 sẽ ảnh hưởng đến hoạt động quản trị công tỵ (đối với giao dịch với các bên liên quan không được thông qua đúng thẩm quyền) và hoạt động chào bán chứng khoán (đối với phương án sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành chúng khoán phải thuộc thẩm quyền thông qua của ĐHĐCĐ).

Theo Lao động và Công đoàn

Đọc tiếp

Tập đoàn Dabaco (Ảnh minh hoạ)

Dabaco lãi lớn trong quý I

Quý I/2024, Dabaco ghi nhận gần 3.300 tỷ đồng doanh thu, tăng 41% so với cùng kỳ, lợi nhuận sau thuế đạt 73 tỷ đồng trong khi cùng kỳ năm ngoái từng lỗ 321 tỷ đồng.

Nhịp cầu doanh nghiệp

Chat với BizLIVE