Một trong những nội dung trọng tâm của luật sửa đổi là bổ sung ba điều luật mới (Điều 198a, Điều 198b và Điều 198c) ngay sau Điều 198, nhằm thiết lập khung pháp lý chặt chẽ và minh bạch cho việc xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến nợ xấu.
Điều 198a quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc thu giữ tài sản bảo đảm. Theo đó, bên bảo đảm hoặc người đang giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, kèm theo giấy tờ và hồ sơ pháp lý liên quan, cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoặc tổ chức mua bán, xử lý nợ, theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác và quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp bên bảo đảm hoặc người giữ tài sản không tự nguyện giao, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoặc tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo các điều kiện quy định tại điều này.
Cụ thể, việc thu giữ được thực hiện khi: (1) đáp ứng các điều kiện xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự; (2) hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận cho phép bên nhận bảo đảm thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản theo quy định pháp luật về bảo đảm; (3) việc xử lý tài sản bảo đảm tuân thủ pháp luật và không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định về phá sản; (4) tài sản bảo đảm đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định; (5) TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoặc tổ chức mua bán, xử lý nợ đã công khai thông tin theo Khoản 3 hoặc Khoản 4 của Điều 198a.
Đối với tài sản bảo đảm là bất động sản, tổ chức liên quan phải công khai thông tin về việc thu giữ chậm nhất 15 ngày trước khi tiến hành. Đối với tài sản bảo đảm là động sản, trước khi thu giữ, tổ chức phải công khai thông tin về tài sản và lý do thu giữ thông qua các hình thức như: đăng tải trên trang thông tin điện tử của tổ chức; gửi văn bản thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm; thông báo cho bên bảo đảm hoặc người đang giữ tài sản bảo đảm theo phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm.
Nếu không có thỏa thuận về phương thức thông báo, thông báo có thể được gửi trực tiếp, qua ủy quyền, dịch vụ bưu chính, phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu, hoặc các phương thức khác dựa trên thông tin liên lạc do bên bảo đảm hoặc người giữ tài sản cung cấp. Trường hợp bên bảo đảm hoặc người giữ tài sản thay đổi địa chỉ mà không thông báo cho bên nhận bảo đảm, địa chỉ được xác định theo thông tin trong hợp đồng bảo đảm hoặc lưu trữ tại cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm.
Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã nơi tiến hành thu giữ có trách nhiệm đảm bảo an ninh, trật tự và an toàn xã hội trong quá trình thu giữ. Nếu bên bảo đảm không hợp tác hoặc vắng mặt theo thông báo, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã phải tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm. TCTD được phép ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của TCTD đó; tổ chức mua bán, xử lý nợ hoặc TCTD nhận chuyển giao bắt buộc cũng có thể chuyển giao quyền thu giữ cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của TCTD nhận chuyển giao.
Điều 198b quy định về việc kê biên tài sản của bên phải thi hành án dân sự đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu. Tài sản này chỉ bị kê biên và xử lý theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự trong các trường hợp sau: (1) hợp đồng bảo đảm được ký kết và có hiệu lực sau thời điểm bản án hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật; (2) thi hành án liên quan đến cấp dưỡng hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; (3) có sự đồng ý bằng văn bản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoặc tổ chức mua bán, xử lý nợ. Quy định này đảm bảo quyền lợi của các TCTD và đơn vị xử lý nợ, tránh việc tài sản bảo đảm bị kê biên tùy tiện trong quá trình thi hành án dân sự.
Điều 198c quy định về việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự. Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét xử, nếu tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được sử dụng làm vật chứng trong vụ án hình sự, tài sản này sẽ được hoàn trả cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoặc tổ chức mua bán, xử lý nợ, theo đề nghị của bên nhận bảo đảm, với điều kiện hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận cho phép bên nhận bảo đảm thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu. Sau khi được hoàn trả, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Ngoài ra, Luật sửa đổi đã chỉnh sửa Khoản 1, Điều 193 để làm rõ thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc quyết định các khoản vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước được quyền quyết định cho vay đặc biệt, bao gồm cả khoản vay có tài sản bảo đảm và không có tài sản bảo đảm, trong các trường hợp được quy định tại Khoản 1, Điều 192 của Luật các TCTD. Tài sản bảo đảm của khoản vay đặc biệt được xác định theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Một điểm đáng chú ý là lãi suất áp dụng cho các khoản vay đặc biệt này được ấn định ở mức 0% mỗi năm, tạo điều kiện hỗ trợ tài chính hiệu quả cho các TCTD gặp khó khăn mà không phát sinh chi phí lãi suất.