Giá dầu tăng mạnh liệu có tác động đến giá vàng?

Giá dầu và vàng đều đang biến động mạnh với những nguyên nhân chung: Lạm phát, lãi suất, căng thẳng ở Trung Đông….

Giá dầu tăng mạnh liệu có tác động đến giá vàng?

Giá dầu Brent kết thúc thứ Sáu (12/4) ở mức 90,45 USD/thùng, trong khi dầu WTI của Mỹ 85,66 USD trong mối lo ngại Iran, nhà sản xuất dầu mỏ lớn thứ 3 trong khối OPEC, có thể trả đũa vụ tấn công vào đại sứ quán của họ ở Damascus. Các nhà phân tích lo ngại nếu cuộc tấn công của Iran dẫn đến một cuộc chiến tranh rộng hơn có thể khiến giá dầu tăng vượt 100 USD/thùng.

Trong khi đó, giá vàng tăng 4 tuần liên tiếp, hôm thứ Sáu có lúc vượt ngưỡng 2.400 USD/ounce, bất chấp việc USD và lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tăng mạnh.

Câu hỏi đặt ra là mối tương quan giữa dầu và vàng như thế nào? Liệu dầu có tác động đến vàng (và ngược lại) hay không?

Hiệu suất của dầu cũng thường được coi là yếu tố tác động đến giá vàng. Để xác minh ý kiến trên, chúng ta hãy xem biểu đồ 1. Mặc dù mối quan hệ này không hoàn hảo nhưng cả hai mặt hàng đều có xu hướng biến động song song trong dài hạn. Giá cả vàng và dầu đều tăng trong những năm 1970 và 2000, trong khi giảm ở những năm 1980 và 1990, mặc dù giá dầu biến động nhiều hơn.

202404140339041-9589.gif
Biểu đồ 1: Giá vàng (đường màu xanh, ĐVT bên trái) và giá dầu (đường màu đỏ, ĐVT bên phải) từ năm 1968 đến 2015.

Đây có phải chỉ là sự phối hợp/hoặc mối quan hệ ngẫu nhiên nào đó giữa giá dầu và giá vàng?

Lý thuyết phổ biến nhất cho thấy mối liên hệ giữa hai mặt hàng này hoạt động thông qua kênh lạm phát. Theo quan điểm này, giá dầu tăng thường ảnh hưởng đến mức giá chung, làm tăng nhu cầu vàng để phòng ngừa lạm phát. Có một số vấn đề với cách tiếp cận này. Đó là, kim loại ‘sáng bóng lên’ không nhất thiết chỉ là để phòng ngừa lạm phát giá cả. Mặt khác, khi giá dầu tăng, các giá khác sẽ giảm tương đối, vì nhiều vốn chi cho dầu hơn đồng nghĩa với việc nhu cầu tiền tệ đối với các hàng hóa và dịch vụ khác sẽ giảm (trừ khi cung tiền tăng).

Như vậy, có vẻ như giá dầu không tác động đến giá vàng mà đúng hơn là cả hai mặt hàng đều có mối tương quan với sự vận động của một số yếu tố thúc đẩy bên ngoài. Đối với nhiều nhà phân tích, các sự kiện địa chính trị, đặc biệt là ở Trung Đông, tác động đồng thời đến giá dầu và vàng (cả đầu tư vào vàng và dầu thường trở nên sinh lời nhiều hơn trong những trường hợp này).

Quảng cáo

Mặc dù quan điểm này có thể có phần đúng, nhưng những lo ngại về địa chính trị chỉ ảnh hưởng đến vàng trong ngắn hạn (nếu có). Điều này có nghĩa là rủi ro địa chính trị không thể giải thích được mối quan hệ lâu dài giữa giá vàng và giá dầu.

Như vậy, cả hai mặt hàng đều bị ảnh hưởng đơn giản bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô chung: lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái. Ví dụ, khi đồng bạc xanh tăng giá trị, giá dầu và vàng có xu hướng giảm (khi các nhà kinh doanh vàng và dầu thô bán ra). Những thay đổi về lãi suất có thể ảnh hưởng thêm đến đồng đô la Mỹ và do đó ảnh hưởng đến dầu và vàng. Nếu lãi suất thực giảm thì chi phí cơ hội của việc nắm giữ hàng hóa sẽ giảm, khiến chúng trở nên hấp dẫn hơn so với các tài sản khác.

Vàng và dầu đại diện cho những mặt hàng được giao dịch nhiều nhất trên thế giới. Khả năng tài chính hóa cao của 2 mặt hàng này có nghĩa là các nhà quản lý danh mục đầu tư có thể nhanh chóng ứng phó với sự sụt giảm lãi suất bằng cách chuyển các tài sản khác sang thị trường dầu và vàng. Giá dầu cũng có thể tăng do khuyến khích khai thác vào ngày mai cao hơn so với hôm nay (dẫn đến tốc độ bơm dầu chậm lại) và tồn kho.

Nhà đầu tư hãy đừng quên tác động của chính sách tiền tệ. Giá hàng hóa linh hoạt hơn giá hàng tiêu dùng; do đó bị ảnh hưởng ngày càng nhanh hơn bởi xu hướng tiền tệ. Do đó, kênh lạm phát được xác định chính xác sẽ hàm ý rằng cả giá dầu và giá vàng đều tăng để đáp ứng với tăng trưởng cung tiền, đặc biệt nếu chúng được coi là biện pháp phòng ngừa lạm phát do nguồn cung hạn chế.

Thật vậy, sự bùng nổ dầu mỏ và vàng trong những năm 1970 (và những năm 2000) một phần là do chính sách tiền tệ mở rộng mạnh mẽ của Arthur Burns (và Alan Greenspan và Ben Bernanke), làm suy yếu niềm tin vào nền kinh tế Mỹ và đồng tiền của nước này (khiến các nhà giao dịch ngoại hối bán đồng Mỹ kim). Tương tự, thị trường dầu và vàng giá xuống trong những năm 1980 và 1990 có thể được giải thích một phần bởi việc thắt chặt tiền tệ do Paul Volcker thực hiện và niềm tin gia tăng trở lại vào nền kinh tế lớn nhất thế giới và đồng bạc xanh.

Tuy nhiên, sức mạnh của đồng đô la Mỹ không giải thích được những thay đổi về giá tương đối của vàng và dầu. Biểu đồ dưới đây cho thấy tỷ lệ vàng và dầu, tức là giá vàng chia cho giá dầu. Điều này rất được quan tâm xem xét vì tỷ lệ tương đối cho phép chúng ta phân tích mối quan hệ giữa vàng và dầu mà không có tác động gián đoạn của chính sách tiền tệ. Biểu đồ cho thấy tỷ lệ này khá biến động, chứng tỏ vàng và dầu phản ứng khác nhau trước cùng những diễn biến bên ngoài giống nhau.

202404140339042-8420.gif
Biểu đồ 2: Tỷ lệ vàng và dầu (giá vàng chia cho giá dầu) từ 1968 đến 2015.

Mặc dù không có mô hình rõ ràng nhưng tỷ lệ vàng/dầu thường tăng cao trong các cuộc khủng hoảng tài chính, như cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, cuộc khủng hoảng nợ Mỹ Latinh những năm 1980, cuộc khủng hoảng châu Á và Nga năm 1997-1998, hay sự bùng nổ của cuộc Đại suy thoái ở Mỹ năm 2008. Điều này chứng tỏ vàng không chỉ đơn thuần là hàng hóa mà còn là tài sản tiền tệ, phản ứng với các yếu tố khác với dầu, ít nhất là trong ngắn hạn và trung hạn.

Điểm mấu chốt là hiệu suất dầu không ảnh hưởng đến giá vàng. Sự cùng chuyển động được quan sát là kết quả của thực tế là cả hai mặt hàng đều có mối tương quan với sự chuyển động của các yếu tố kinh tế vĩ mô giống nhau, chẳng hạn như chính sách tiền tệ, đồng đô la Mỹ và lãi suất thực.

Thực tế này phản ánh rằng “sự tương quan không bao hàm quan hệ nhân quả”. Thật vậy, sau khi tính đến tác động của tiền định danh, không có mối quan hệ rõ ràng nào giữa dầu và vàng, và vàng (với tư cách là tài sản tiền tệ) phản ứng mạnh mẽ hơn trước các cuộc khủng hoảng tài chính, trong khi dầu (với tư cách là hàng hóa công nghiệp) phản ứng mạnh mẽ hơn đối với các yếu tố cơ bản của cung và cầu.

Tham khảo: Investing

Theo markettimes.vn Sao chép

Cùng chuyên mục Kinh doanh quốc tế

Chứng khoán Mỹ và châu Âu quay đầu giảm phiên cuối tuần do áp lực chốt lời

Chứng khoán Mỹ và châu Âu đồng loạt giảm điểm trong phiên giao dịch cuối tuần 12/12, khi áp lực chốt lời đã thu hẹp đà tăng có được sau quyết định giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).

Chứng khoán châu Á vẫn tăng điểm sau báo cáo gây thất vọng của Oracle Chứng khoán Mỹ phân hóa mạnh sau quyết định lãi suất của Fed

Phố Wall rúng động khi cổ phiếu AI lao dốc

Bất chấp kết quả kinh doanh vượt dự báo của Phố Wall, cổ phiếu của tập đoàn công nghệ Broadcom vẫn lao dốc mạnh trong phiên ngày 12/12, giảm tới 11%, đánh dấu ngày tệ nhất kể từ tháng 1/2025.

Chứng khoán châu Á vẫn tăng điểm sau báo cáo gây thất vọng của Oracle Chứng khoán Mỹ phân hóa mạnh sau quyết định lãi suất của Fed

Ấn Độ nới lỏng quy định thị thực cho chuyên gia Trung Quốc

Hai quan chức Ấn Độ cho biết nước này đã cắt giảm các thủ tục hành chính để đẩy nhanh quá trình cấp thị thực (visa) doanh nghiệp cho các chuyên gia Trung Quốc.

"Ông lớn" hàng không Ấn Độ hủy hơn 1.000 chuyến bay chỉ trong vài ngày Vingroup hợp tác chiến lược với bang Telangana, mở rộng hệ sinh thái đa ngành tại Ấn Độ

Chứng khoán châu Á tăng điểm mạnh theo đà lên giá kỷ lục của Phố Wall

Thị trường chứng khoán châu Á tăng điểm mạnh trong phiên chiều 12/12 theo đà tăng kỷ lục của Phố Wall sau quyết định cắt giảm lãi suất mới nhất từ Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed).

Nhà đầu tư chứng khoán thận trọng trước thềm quyết định của Fed Chứng khoán châu Á vẫn tăng điểm sau báo cáo gây thất vọng của Oracle

Apple bị điều tra việc độc quyền công nghệ NFC trên iPhone

Cuộc điều tra sẽ giúp cơ quan này thu thập thông tin từ các bên tham gia thị trường để xác định xem liệu "quả táo khuyết" có vi phạm các quy định chống độc quyền tại Thụy Sĩ hay không.

Apple sa thải hàng chục nhân viên kinh doanh dù doanh thu lập kỷ lục Lần đầu tiên sau 14 năm, Apple vượt Samsung về sản lượng điện thoại

Fed có thể tiếp tục giảm lãi suất khi xem xét số liệu của thị trường việc làm

Lo ngại suy yếu việc làm khiến Fed hạ lãi suất và có thể tiếp tục nới lỏng trong năm 2026, khi dữ liệu cho thấy tăng trưởng việc làm bị thổi phồng và rủi ro thất nghiệp gia tăng.

Fed giảm lãi suất, Phố Wall tăng điểm mạnh mẽ Phản ứng của Tổng thống Mỹ về quyết định hạ lãi suất của Fed