Với mức tăng trưởng dự kiến là 7% trong năm tới, nền kinh tế Ấn Độ được thiết lập để ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao nhất trong tất cả nền kinh tế lớn trên thế giới - “Ngôi sao sáng” trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ảm đạm. Bài viết lập luận rằng câu chuyện tăng trưởng của Ấn Độ trong những năm tới được định hình bởi các yếu tố địa kinh tế-chính trị đang mở ra duy trì hiện tượng “tăng trưởng dựa vào tiêu dùng”, thúc đẩy hơn nữa đầu tư và sản xuất.
Ấn Độ với câu chuyện RTA/FTA
Nhiều người cho rằng việc Ấn Độ rút khỏi Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) tháng 11/2019 là một cơ hội bị bỏ lỡ. Điều này được đưa ra dựa trên giả thuyết rằng thỏa thuận lớn trước đây gồm 16 quốc gia (bao gồm cả Ấn Độ với tư cách là thành viên) giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ấn Độ tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa ASEAN và giúp ích cho tầm nhìn “Sản xuất tại Ấn Độ” của Ấn Độ. Một lần nữa, đã có những lập luận rằng các chi phí khác nhau của việc Ấn Độ tham gia RCEP lớn để lấn át những lợi ích được công bố.
Mặt khác, những lo ngại thâm hụt thương mại gia tăng cũng rất lớn. Tuy nhiên, lý do áp đảo nhất được nhiều nhà phân tích chỉ ra là sự hiện diện của Trung Quốc trong khối RCEP. Mặc dù nhiều người cho rằng việc Ấn Độ rút khỏi RCEP là “bảo hộ” và “bảo thủ” nhưng có vẻ như việc Ấn Độ rút khỏi các cuộc đàm phán là một bước đi khôn ngoan do những chi phí không thể lường trước và không thể nhận thấy phát sinh trên các mặt trận kinh tế, địa kinh tế-chính trị trong nước.
Chuỗi giá trị hàng hóa trong nước dự kiến bị ảnh hưởng tiêu cực do ngành sản xuất trong nước không thể chống lại sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các nền kinh tế RCEP khác nhau. Tuy nhiên, từ năm 2021, Ấn Độ bất ngờ ký kết các hiệp định thương mại song phương. Ấn Độ-Mauritius CECPA (Hiệp định đối tác và hợp tác kinh tế toàn diện) năm 2021, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Ấn Độ-UAE CEPA) và ECTA Australia-Ấn Độ (Hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại) năm 2022 là một số ví dụ.
Các cuộc đàm phán tích cực với Anh và Canada đang ở giai đoạn chót và ý định nghiêm túc về việc ký kết FTA với EU và Israel cũng được đề cập. Điều này gửi thông điệp tới cộng đồng toàn cầu rằng Ấn Độ đang rũ bỏ hình ảnh “bảo thủ” và “bảo hộ”. Các tác động địa kinh tế cũng rất lớn. CEPA Ấn Độ-UAE củng cố cam kết của Ấn Độ với I2U2 (tức là Israel, Ấn Độ, UAE và Mỹ), còn được gọi là QUAD phía Tây.
Một lần nữa, hiệp định cho phép Ấn Độ tiếp cận với các nước láng giềng phía Tây có thể tạo thuận lợi cho quá trình đàm phán hiệp định thương mại khi không có Trung Quốc. Hơn nữa, giúp Ấn Độ đi trước một bước trong việc có FTA Ấn Độ-GCC (Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh), cải thiện mối quan hệ với các quốc gia vùng vịnh. Về mặt kinh tế, hiệp định thương mại được hình dung tăng gần gấp đôi thương mại hàng hóa song phương vào năm 2027 lên 100 tỷ USD, tăng thương mại dịch vụ lên 15 tỷ USD và tạo ra 10.000 việc làm trong các lĩnh vực thâm dụng lao động.
Hơn nữa, ECTA Australia-Ấn Độ tăng cường quan hệ Australia-Ấn Độ trên nhiều mặt, bao gồm cả địa chính trị. Sau khi một FTA toàn diện hơn, tức là CECA (Thỏa thuận hợp tác kinh tế toàn diện) được ký kết giữa hai quốc gia, nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ và sở hữu trí tuệ được đề cập.
Ngay cả trong QUAD, mối quan hệ bền chặt giữa Australia và Ấn Độ giúp tạo ra một thị trường ngách Australia-Ấn Độ. Một lần nữa, Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì sự thịnh vượng (IPEF), một sáng kiến kinh tế do chính quyền Biden thúc đẩy với tổng số 15 quốc gia thành viên tham gia, thể hiện tiềm năng lớn để ký kết một thỏa thuận thương mại khu vực và tạo ra một khối thương mại không có Trung Quốc.
Nếu điều đó xảy ra, Ấn Độ, với tư cách là một thành viên, chắc chắn là nước được hưởng lợi. IPEF có quy mô lớn hơn cả về dân số và tổng thu nhập so với RCEP, và chắc chắn có thể đặt ra một thách thức lớn đối với RCEP về khả năng vạch ra một trật tự kinh tế toàn cầu mới. Không còn nghi ngờ gì nữa, các FTA đang nổi lên như một công cụ quan trọng cho ngoại giao kinh tế của Ấn Độ nhằm đạt được mức độ cam kết sâu hơn với các quốc gia thân thiện.
Đồng thời, các FTA là trò chơi hai cấp đối với Ấn Độ. Ở cấp độ quốc tế, Ấn Độ phải đàm phán với (các) quốc gia liên quan, trong khi ở cấp độ trong nước, Ấn Độ phải đàm phán với nhiều khu vực bầu cử đang tranh chấp. Tuy nhiên, không thể bỏ qua vai trò của các FTA với tư cách là động lực tăng trưởng thông qua thương mại và đầu tư.
Nó giúp tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh cho đầu tư nước ngoài, giúp có được các yếu tố sản xuất rẻ hơn có thể làm cho các sản phẩm của Ấn Độ cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và do đó là động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Tăng trưởng dựa vào tiêu dùng
Trong khi đã đề cập các FTA thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, điều này có thể xảy ra thông qua hai con đường. Đầu tiên là các FTA cho phép nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn và tăng lựa chọn tiêu dùng. Thứ hai là hiệu ứng cấp số nhân trực tiếp của tăng cường thương mại và tăng việc làm có tác động cấp số nhân đối với thu nhập trong nước. Cả hai lực lượng kết hợp với nhau làm tăng sức mua của người tiêu dùng và tăng nhu cầu tiêu dùng.
Như vậy, câu chuyện tăng trưởng của Ấn Độ trong ba thập kỷ qua kể từ khi tự do hóa kinh tế được thúc đẩy bởi tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế, sự giảm tốc và tăng trưởng âm trong giai đoạn 2020-21 cũng được cho là do chi tiêu tiêu dùng tư nhân giảm, trong khi sự phục hồi tăng trưởng gần đây cũng cần được cho là do điều đó. Trong khi nhiều quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, thực hiện các can thiệp chính sách để hướng tới chiến lược “tăng trưởng dựa trên tiêu dùng” cho một mô hình tăng trưởng bền vững thì Ấn Độ may mắn được ban cho động lực đó một cách tự nhiên.
Mặc dù nhiều người cho rằng các gói tài chính được công bố trong năm đại dịch 2020 là động lực thúc đẩy sự hồi sinh rõ ràng của nền kinh tế Ấn Độ, nhưng sức mạnh tiêu dùng tư nhân với tư cách là yếu tố quyết định tăng trưởng của Ấn Độ được chỉ ra từ chính dữ liệu. Một mặt, tăng trưởng tiêu dùng được thúc đẩy hơn nữa bởi các FTA. Mặt khác, yếu tố tạo điều kiện khác cho câu chuyện tăng trưởng của Ấn Độ là Trung Quốc với những hành vi sai trái và quản lý yếu kém các mối quan hệ chiến lược quốc tế cũng như nền kinh tế trong nước.
Yếu tố địa chính trị và địa kinh tế
Đại dịch và cuộc chiến sau đó dạy cho nền kinh tế toàn cầu rằng sự phụ thuộc quá mức vào một chuỗi giá trị toàn cầu dành riêng cho một nền kinh tế (cho dù đó là Trung Quốc hay với Ukraine-Nga) chứa đầy rủi ro lớn. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và sự gián đoạn chuỗi cung ứng do đại dịch thúc đẩy chiến lược Trung Quốc+1 (C+1) nhằm đa dạng hóa đầu tư từ Trung Quốc sang các quốc gia khác, nhằm giảm thiểu rủi ro kinh tế và địa chính trị liên quan đến chiến lược trước đây.
Ấn Độ đang và sẽ là nước hưởng lợi lớn từ điều này vì nhiều lý do. Như vậy, trong tổng số 950 tỷ USD vốn FDI mà Ấn Độ nhận được kể từ năm 1947, hơn 55% đã đến kể từ khi đại dịch bùng phát.
Thứ nhất, lợi thế cạnh tranh của Ấn Độ nằm ở lợi tức nhân khẩu học so sánh được với Trung Quốc. Dân số dưới 30 tuổi ở Ấn Độ chiếm khoảng 52%, so sánh thuận lợi với khoảng 40% ở Trung Quốc, vốn giảm nhanh hơn trong thập kỷ tới. Dân số trẻ dự kiến thúc đẩy tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng dựa trên tiêu dùng.
Thứ hai, theo ước tính năm 2019, mức lương trung bình của Ấn Độ bằng 10% so với Trung Quốc, do đó tạo ra khả năng cạnh tranh về chi phí tương đối cho các sản phẩm được sản xuất tại Ấn Độ so với Trung Quốc. Điều này đã hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, sự nhấn mạnh lớn của Ấn Độ vào cơ sở hạ tầng vật chất thông qua các dự án như Đường ống cơ sở hạ tầng quốc gia (NIP) cho năm tài chính 2019-2025 (tổng chi phí dự án ước tính là 1791,05 tỷ USD) và tăng trưởng ngành giao thông vận tải làm giảm chi phí giao dịch kinh doanh. Có những cáo buộc rằng ở Trung Quốc, có sự phân mảnh của chuỗi hậu cần với việc nhận hàng, vận chuyển trên đường và giao hàng cuối cùng được thực hiện bởi các công ty khác nhau, làm tăng chi phí giao dịch.
Thứ tư, Ấn Độ nỗ lực hết sức để cải cách môi trường kinh doanh thông qua chính sách thực thi hiệu quả: thông qua biện pháp như chương trình Khuyến khích liên kết sản xuất (PLI), hoặc mang lại những thay đổi đáng kể trong chế độ thuế, tự do hóa chính sách Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong sản xuất.
Thứ năm đòi hỏi kiến thức kỹ thuật số và kỹ năng tiếng Anh. Về cả hai khía cạnh, giới trẻ Ấn Độ đều vượt xa Trung Quốc. Thứ bảy, như đã nói ở trên, chính sách ngoại giao của Ấn Độ cũng đang đóng một vai trò quan trọng với các hiệp định thương mại được sử dụng như một công cụ ngoại giao quan trọng. Điều này đúng với UAE, Australia và các đối tác như QUAD (hoặc thậm chí IPEF) và I2U2.
Các hiệp định thương mại được lên kế hoạch sau đó với Canada, EU và các nước châu Phi bổ sung thêm khả năng cho các doanh nghiệp Ấn Độ khai thác cả thị trường sản phẩm và nhân tố chưa được khai thác, điều này thúc đẩy hơn nữa hiện tượng tăng trưởng dựa vào tiêu dùng. Cuối cùng, với việc Ấn Độ trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới, vượt qua Trung Quốc vào tháng 1/2023, nước này thể hiện là thị trường nhân tố và sản phẩm lớn nhất đối với cộng đồng toàn cầu.
Không có quốc gia nào khác trên thế giới có thị trường lớn với dân số 1,4 tỷ người có thu nhập tăng 7% mỗi năm theo ước tính gần đây. Thị trường này chỉ được dự kiến sẽ phát triển hơn nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, các nhà đầu tư toàn cầu đang bị thu hút bởi quy mô tuyệt đối này./.