TS. Lưu Bình Nhưỡng: Việc tăng lương lúc nào cũng cấp thiết để đảm bảo căn bản đời sống người lao động

TS. Lưu Bình Nhưỡng (Phó trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội, nguyên Ủy viên thường trực Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội) cho rằng, không chỉ lúc này mà việc tăng lương lúc nào cũng cấp thiết bởi tiền lương là căn bản của đời sống người lao động.
TS. Lưu Bình Nhưỡng cho rằng, việc tăng lương là cấp thiết.
TS. Lưu Bình Nhưỡng cho rằng, việc tăng lương là cấp thiết.

Theo con số Bộ Nội vụ vừa công bố, trong 2,5 năm qua có gần 40.000 cán bộ, công chức, viên chức thôi việc ở khu vực công chuyển sang khu vực tư. Ông nghĩ gì về “làn sóng nghỉ việc” này?

Có thể nói, đây là con số tương đối lớn. Nhìn vào, có hai vấn đề nổi lên. Thứ nhất, đối với nước ta, việc cán bộ, công chức, viên chức xin nghỉ việc là một điều bất thường. Bất thường ở chỗ, người ta học hành, có bằng cấp để mong vào được biên chế còn khó khăn. Nhưng lại có một bộ phận không nhỏ xin nghỉ việc ở khu vực công sang khu vực tư rõ ràng là bất thường.

Khía cạnh thứ hai, có thể xem đó là điều thể hiện sự bình thường nếu chúng ta xem xét ở khía cạnh linh hoạt của việc làm, của thị trường lao động. Trong một thị trường lao động, câu chuyện ở khu vực tư hay khu vực công đều không còn quá nặng nề. Có lẽ, dần dần người lao động cũng không còn quan niệm quá lớn đối với công và tư. Cho nên, người ta sẵn sàng bỏ việc ở khu vực công ra làm tư nếu như thu nhập cao hơn.

Đây có phải là hồi chuông báo động không nhỏ đối với các cơ quan hoạch định chính sách, trước hết là chính sách về lương?

Rõ ràng, nếu cán bộ bỏ việc đương nhiên là điều phải suy nghĩ, phải cân nhắc và đánh giá rõ thực trạng. Từ thực trạng này, tìm hiểu nguyên nhân để từ đó tìm ra giải pháp.

Trong công tác cán bộ nói chung, quy hoạch là vấn đề theo tôi cũng khá quan trọng. Nhưng quy hoạch ở đây không phải để phát triển cán bộ mà quan trọng là làm sao để đảm bảo đào tạo đội ngũ cán bộ ổn định.

Theo nhiều chuyên gia, nguyên nhân chính khiến nhiều người bỏ khu vực công là do chế độ tiền lương không đủ sống. Với gần 40.000 cán bộ, công chức, viên chức thôi việc sẽ để lại những hệ lụy gì, theo ông?

Theo tôi, cùng một lúc có nhiều người nghỉ việc thì rõ ràng là điều đáng băn khoăn. Vì sao người ta lại nghỉ việc nhiều như thế và cùng một lúc? Điều này nó ảnh hưởng đến tâm lý xã hội. Đây là vấn đề thứ nhất.

Thứ hai, xã hội sẽ có suy nghĩ, đánh giá phải chăng do một nguyên nhân liên quan đến công tác quản lý nhà nước ở phía cán bộ hay công tác đảm bảo quyền lợi ích người lao động của cán bộ chưa tốt nên người ta bỏ ra ngoài. Đây là vấn đề được xã hội đặt ra.

Cán bộ nghỉ việc sẽ ảnh hưởng đến vị trí việc làm, nhiều vị trí việc làm trống. Tức là, có thể nảy sinh nhiều vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội…

Ông có khuyến nghị chính sách gì từ thực trạng cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc?

Các cơ quan, đơn vị phải đánh giá một cách đầy đủ, chính xác thực trạng người lao động nghỉ việc. Chúng ta không thể chủ quan bởi cần đánh giá rõ thực trạng để tìm nguyên nhân, từ đó tìm ra giải pháp.

Dư luận xã hội cho rằng, nhiều cán bộ làm khu vực công không đủ sống, chế độ chính sách, tiền lương bảo hiểm xã hội chưa đảm bảo.

Có lẽ do việc cải cách tiền lương của chúng ta… chưa tới. Cho nên, Nghị quyết TW về vấn đề vấn đề tiền lương cho đến hiện nay chưa làm được. Rõ ràng điều này cũng phần nào ảnh hưởng. Hơn nữa, trải qua giai đoạn COVID-19 dẫn đến việc người lao động cũng có nhiều tâm lý, gặp khó khăn.

Theo tôi, nảy sinh hai vấn đề cần xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện và cần quan tâm: Đầu tiên phải xem xét chế độ, chính sách đối với người lao động như thế nào? Mà chế độ chính sách ở đây không chỉ là chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội mà còn tất cả chính sách khác. Ví dụ, chính sách về nhà ở, về đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt bổ nhiệm, môi trường làm việc, vấn đề ứng xử văn hóa công sở…

Vấn đề thứ hai cũng cần hết sức quan tâm và cải thiện, đó là công tác cán bộ nói chung, trong đó có vấn đề quy hoạch. Từ vấn đề giáo dục chính trị tư tưởng cho đến đề bạt, bổ nhiệm thế nào để đảm bảo tính công bằng.

Tôi được biết có những người bỏ việc vì lý do cống hiến bao nhiêu năm nhưng khi đề bạt bổ nhiệm thì họ lại không được ưu ái. Họ thấy điều đó là bất công nên bỏ việc. Trong khi đó, có những người được “cài cắm” vào những vị trí tốt nhưng thực sự không đảm bảo về mặt đạo đức, phẩm chất cũng như năng lực. Nên điều này cũng ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý nhiều người.

TS. Lưu Bình Nhưỡng: Việc tăng lương lúc nào cũng cấp thiết để đảm bảo căn bản đời sống người lao động ảnh 1

Cần đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. (Nguồn: VGP)

Từ đây, ông suy nghĩ gì về câu chuyện đến bao giờ mới đạt mục tiêu có một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước?

Vấn đề này Nghị quyết TW 5 đã đặt ra rồi, trong đó có công tác cán bộ nói chung và công tác quy hoạch đối với đội ngũ lãnh đạo cấp chiến lược. Nhưng theo tôi, căn bản không phải ở chỗ Nghị quyết viết như thế nào, mà điều quan trọng nhất là chỉ đạo quá trình thực hiện, thực tế hóa, hiện thực hóa vấn đề đó.

Và đừng biến Nghị quyết thành "con tin" của những lợi ích nhóm, chúng ta mới có thể khẩn trương quy hoạch được đội ngũ cán bộ năng lực phẩm chất vững vàng, thực sự gắn bó với Nhà nước.

Vấn đề ở đây không chỉ là quy hoạch, quan trọng "nói là phải làm" và phải đảm bảo được đời sống của cán bộ, nhân viên. Chúng ta muốn nhanh chóng có một đội ngũ cán bộ theo đúng Nghị quyết TW 5 và theo đường lối của Đảng thì trước hết phải thực hiện chính sách pháp luật cho nghiêm. Phải xử lý tất cả những cơ quan, đơn vị, cá nhân để xảy ra những vấn đề liên quan đến công tác cán bộ, chúng ta mới có thể đảm bảo cho đội ngũ cán bộ yên tâm công tác được.

Trước thực trạng này, ông đánh giá vấn đề tăng lương cấp thiết như thế nào?

Theo tôi, không chỉ lúc này mà việc tăng lương lúc nào cũng cấp thiết. Tiền lương là căn bản của đời sống, không chỉ đời sống theo nghĩa thông thường là miếng ăn mà nó còn là toàn bộ hệ thống sinh hoạt của bản thân và gia đình người lao động.

Hơn nữa, nó chính là phương tiện để người ta tiếp tục sử dụng, để trau đồi thêm năng lực, để tiếp tục cống hiến. Cho nên người ta phải có tiền ăn, tiền kiến thiết, tiền vui chơi giải trí, tiền nuôi con… Nếu tiền lương không đủ ăn, không đảm bảo cuộc sống thì tất nhiên, làm sao người ta có thể yên tâm, buộc phải ra ngoài.

Ví dụ, một điều dưỡng viên trong bệnh viện tôi thấy chỉ có quy định là điều dưỡng cấp 2 trở xuống chứ không có cấp 1. Tại sao đội ngũ vất vả nhất khi phải chăm sóc trực tiếp người bệnh, đầu tắt mặt tối, đòi hỏi phải học hành, phải có kỹ thuật… mà họ chỉ là cấp 2, cấp 3, cấp 4 chứ không có cấp 1?

Tôi thấy chưa thỏa đáng bởi nếu quy hoạch như vậy thì tiền lương họ sẽ thấp. Tiền lương thấp mà phải làm việc cật lực, làm việc trách nhiệm cao thì đương nhiên họ nghỉ việc cũng là điều dễ hiểu.

Rõ ràng, khi tiếp cận với những vấn đề an sinh xã hội tưởng đơn giản như thế nhưng lại là vấn đề rất lớn. Những người hoạch định tiền lương phải suy nghĩ một cách cẩn trọng hơn, thấu đáo, đừng tính toán máy móc, cổ hủ.

Theo ông, làm sao để thu hút, giữ chân người có năng lực, có phẩm chất và có tinh thần cống hiến, người làm được việc?

Đương nhiên, người ta cống hiến thì mình phải ghi nhận. Cho nên, người làm công tác cán bộ mà không chú ý đến chuyện đó thì rất nguy hiểm và khó giữ chân được người có năng lực ở lại.

Xin cảm ơn ông!

Theo Thế giới Việt Nam

Đọc tiếp

Ảnh minh họa

Dòng vốn FDI giúp duy trì "điểm sáng" của thị trường bất động sản công nghiệp trong quý đầu tiên năm 2024

Bất động sản khu công nghiệp vẫn là điểm sáng của thị trường trong quý 1/2024 nhờ tăng trưởng tốt dòng vốn FDI. Giá thuê đất trung bình tăng nhẹ 1% tại Hà Nội, đạt 214 USD/m²/kỳ hạn, so với quý trước, trong khi giá thuê đất trung bình tại TP.Hồ Chí Minh và Đà Nẵng vẫn không tăng, lần lượt là 230 USD/m²/kỳ hạn và 95 USD/m²/kỳ hạn.

Ảnh minh họa

Bất động sản công nghiệp miền Bắc tăng sức hút với các nhà đầu tư lớn

Sự tăng trưởng nhờ vào nền kinh tế vĩ mô, các chính sách liên quan, nhu cầu trong nước và những tiến bộ công nghệ đã giúp Hà Nội và 5 tỉnh trọng điểm miền Bắc tiếp tục giữ vị trí top 10 trung tâm thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất Việt Nam, với lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 16,7 tỷ USD trong năm 2023.

Thông tin mới nhất về tuyến đường 14.000 tỉ đồng kết nối từ cao tốc Biên Hoà – Vũng Tàu đến trung tâm Tp.Vũng Tàu

Thông tin mới nhất về tuyến đường 14.000 tỉ đồng kết nối từ cao tốc Biên Hoà – Vũng Tàu đến trung tâm Tp.Vũng Tàu

Sau khi thống nhất đầu tư tuyến đường nối cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu đến trung tâm Tp.Vũng Tàu mới đây dự án đang được hoàn tất các bước chuẩn bị để khởi công. Trong đó, với đoạn qua TP. Bà Rịa sẽ ban hành giá đất cụ thể để tiến hành đền bù ngay trong tháng 4/2024.

Hội nghị triển khai Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến đầu tư

Bà Rịa-Vũng Tàu, thỏi “nam châm” hút vốn đầu tư trong và ngoài nước

Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vừa tổ chức “Hội nghị triển khai Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến đầu tư”. Trong khuôn khổ hội nghị, tỉnh tiến hành trao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Quyết định chủ trương đầu tư và tăng vốn cho 15 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 25.880 tỷ đồng và hơn 1,4 tỷ USD cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Nhịp cầu doanh nghiệp

Ảnh minh họa

Đồng Nai ưu tiên thu hút các dự án xanh, phát triển bền vững

Đồng Nai là một trong những trung tâm phát triển công nghiệp mạnh của khu vực và đất nước. Phát triển mạnh sản xuất công nghiệp giúp Đồng Nai đạt được những thành quả lớn trên lĩnh vực kinh tế. Song, mặt trái của quá trình phát triển này đưa đến tình trạng ô nhiễm môi trường và phát triển thiếu bền vững.

Ảnh minh họa

Thủ tướng yêu cầu xử lý nghiêm doanh nghiệp xăng dầu không xuất hóa đơn bán lẻ điện tử

Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài chính và UBND các tỉnh, thành chỉ đạo các lực lượng chức năng xem xét xử lý các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không thực hiện đúng quy định về hóa đơn điện tử, kể cả việc yêu cầu tạm dừng hoạt động kinh doanh và thu hồi giấy phép.

Ảnh minh hoạ

Sầu riêng quyết định mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành rau quả

Kim ngạch xuất khẩu rau quả trong quý I ước đạt 1,25 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong quý đầu năm, sầu riêng và nhiều trái cây khác của Việt Nam chưa vào vụ nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt và vượt 1 tỷ USD, cho thấy ngành rau quả có nhiều khả năng đạt mục tiêu xuất khẩu 6,5 tỷ USD trong năm nay.

Chat với BizLIVE