Thái Lan và Philippines giảm thuế xuất nhập khẩu có gây khó cho gạo Việt Nam?
Nguyễn Huyền
Ngày 15/5/2021, Philipines đã giảm thuế Tối huệ quốc (MFN) với gạo nhập khẩu trong hạn ngạch từ 40% xuống 35%, gạo nhập khẩu ngoài hạn ngạch ở mức 50% trong vòng một năm. Thái Lan thì giảm thuế xuất khẩu gạo để tăng tính cạnh tranh.
Vào đầu tháng 5/2021, Chính phủ Thái Lan đã giảm thuế xuất khẩu gạo sang thị trường EU và Anh. Động thái này diễn ra trong lúc giá gạo xuất khẩu Thái Lan đang mất dần vị thế số 1 so với các đối thủ, và được Thái Lan kỳ vọng góp phần tăng khả năng cạnh tranh khi Việt Nam đang tung ra nhiều dòng sản phẩm gạo cao cấp, chất lượng, giá cả phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu của các nhà nhập khẩu.
“Không có gì ghê gớm”?
Theo chuyên gia phân tích thị trường, việc Philippines giảm thuế nhập khẩu gạo chỉ hơi áp lực hơn cho xuất khẩu gạo Việt Nam chứ không có gì là “ghê gớm”, bởi Philippines giảm thuế nhập khẩu gạo là để giảm giá gạo nhập khẩu, giúp an ninh lương thực, nhưng mục tiêu của họ là nhằm thu hút thêm nguồn gạo giá rẻ từ Ấn Độ để cạnh tranh với nguồn gạo nhập khẩu từ Việt Nam.
Còn theo ông Nguyễn Văn Thành, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty Sản xuất - Thương mại Phước Thành IV, thuế nhập khẩu gạo của Philippines dành cho các nước trong khối ASEAN hầu như bằng nhau, còn đối với Ấn Độ do không thuộc khối ASEAN nên có những hàng rào thuế, ví dụ có mức thuế nhập khẩu gạo là 42%, cũng có những loại gạo chịu thuế lên đến 72%. Gần đây Chính phủ Philippines muốn giảm thuế nhập khẩu đối với gạo giá rẻ Ấn Độ để phục vụ cho người nghèo. Do vậy, Philippines giảm thuế nhập khẩu gạo cho các nước ngoài khối ASEAN không có gì lo lắng.
“Không như phân khúc gạo giá rẻ Ấn Độ, hiện nay Việt Nam chỉ bán vào Philippines các loại gạo từ trung đến cao cấp, các thành phố lớn của Philippines đều mua gạo cao cấp của Việt Nam. Việt Nam có 3 vụ lúa/năm, lúc nào cũng có gạo mới và người tiêu dùng Philippines rất thích nguồn gạo mới của Việt Nam.
Thứ hai, vận chuyển từ Việt Nam sang Philippines rất gần. Sau khi chúng tôi kết thúc đàm phán bán 5- 10 ngàn tấn và sau khi xuất hàng chỉ trong vòng 3 - 4 ngày là tới cảng Philippines. Nếu nhập khẩu gạo từ Ấn Độ rất khó về vận chuyển và chi phí cao hơn và các thủ tục khác cũng khó khăn hơn so với Việt Nam.
Thái Lan tuy cùng khối ASEAN nhưng do điều kiện địa lý và năng lực giao nhận của họ không bằng Việt Nam, ngay cả Ấn Độ cũng vậy. Nếu 10 hay 20 năm trước thì Việt Nam đi học các nước nhưng bây giờ khi nói về năng lực giao nhận, chế biến gạo thì Việt Nam gần như là số 1 và các nước đang đi học lại Việt Nam”, ông Thành khẳng định.
Philippines vẫn là thị trường chủ lực
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tháng 4/2021 xuất khẩu gạo đạt 782.159 tấn, trị giá 424,22 triệu USD, so với tháng 4/2020 tăng 53,3% về lượng, tăng 66,8% về kim ngạch. Giá xuất khẩu gạo trong tháng 4/2021 đạt trung bình 542,4 USD/tấn, tăng 0,5% so với tháng liền kề trước đó và tăng 8,8% so với tháng 4/2020.
Đây là tháng thứ 2 liên tiếp xuất khẩu gạo tăng trưởng cả về lượng và kim ngạch so với tháng liền kề trước đó, với mức tăng trên 45% cả về lượng và kim ngạch.
Cộng chung 4 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu gạo của cả nước đạt trên 1,93 triệu tấn, thu về trên 1,07 tỷ USD, giảm 6,4% về lượng nhưng tăng 8,2% về kim ngạch so với 4 tháng năm 2020. Giá xuất khẩu trung bình tăng 15,6%, đạt 543,4 USD/tấn.
Trong 4 tháng đầu năm Philippines vẫn là thị trường xuất khẩu chủ lực và đạt 715.717 tấn, tương đương 381,44 triệu USD, giảm 20,7% về lượng và giảm 4,9% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 36% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước. Giá xuất khẩu sang thị trường này tăng 19,8% so với cùng kỳ, đạt 533 USD/tấn.
Thị trường lớn thứ 2 là Trung Quốc chiếm trên 18% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước, đạt 369.161 tấn, tương đương 194,12 triệu USD, tăng 35% về lượng và tăng 22,8% về kim ngạch so với cùng kỳ. Giá xuất khẩu đạt 525,8 USD/tấn, giảm 9%.
Ghana đứng thứ 3, với 209.875 tấn, tương đương 122,67 triệu USD, chiếm 11% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, tăng mạnh 69% về lượng và tăng 104,5% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm 2021
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/5/2021 của TCHQ)
Nguồn VITIC
Trong 4 tháng đầu năm 2021 xuất khẩu gạo sang đa số các thị trường tăng cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý là xuất khẩu sang thị trường Bangladesh mặc dù đứng thứ 6 về kim ngạch, với lượng xuất khẩu đạt 42.875 tấn, tương đương 25,94 triệu USD, nhưng so với 4 tháng năm 2020 thì tăng rất mạnh 29.266% về lượng và tăng 36.161% về kim ngạch (cùng kỳ năm trước chỉ đạt 146 tấn, tương đương 71.530 USD).
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Agrotrade), xét về chủng loại xuất khẩu thì trong quý I/2021, giá trị xuất khẩu gạo trắng chiếm 39,3% tổng kim ngạch; gạo jasmine và gạo thơm chiếm 36,0%; gạo nếp chiếm 22,0%; gạo japonica và gạo giống Nhật chiếm 2,6%, còn các loại gạo khác chiếm 0,1%.
Các thị trường xuất khẩu gạo trắng lớn nhất của Việt Nam là Philippines (chiếm 63,1%), Cuba (chiếm 12,6%) và Malaysia (chiếm 5,7%). Với gạo jasmine và gạo thơm, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Philippines (chiếm 21,9%), Ghana (19,8%) và Bờ Biển Ngà (chiếm 16,8%). Với gạo nếp, thị trường xuất khẩu lớn là Trung Quốc (chiếm 82,5%), Malaysia (chiếm 6,7%) và Philippines (chiếm 4,3%). Với gạo japonica và gạo giống Nhật, thị trường xuất khẩu lớn nhất và nhì của Việt Nam là Đảo quốc Solomon (chiếm 11,8%) và Campuchia (chiếm 11,8%), tiếp theo là Ả rập Xê út (chiếm 8,7%).
Trên thị trường thế giới, trong tháng 4/2021, giá gạo Việt Nam đạt 508 USD/tấn vào đầu tháng và đã giảm xuống còn 488 USD/tấn vào cuối tháng. Nguyên nhân chính là do vụ Đông Xuân đã thu hoạch xong nên nhu cầu mua nguyên liệu giảm, chờ đợi vụ Hè Thu sắp tới.
Hiện nay gạo xuất khẩu Việt Nam loại 5% tấm đang cao hơn gạo cùng loại của Thái Lan khoảng 30 USD/tấn. Cụ thể, gạo 5% tấm Việt Nam chào bán từ 493 - 497 USD/tấn; loại 25% tấm có giá từ 468 - 472 USD/tấn, loại 100% tấm giao động từ 423 - 427 USD/tấn.
Mặc dù đang là thời điểm thu hoạch rộ nhưng giá hồ tiêu trong nước liên tục tăng ngay sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, ngày 21/02 giá tiêu đồng loạt tăng 2.000 đồng/kg, tại các khu vực trọng điểm và giao dịch quanh mức 86.500 – 89.500 đồng/kg.
10 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ và Trung Quốc đạt 215.112 tấn, chiếm tỷ lệ 41,61%. Do chiếm tỷ lệ lớn nên sự tăng, giảm xuất khẩu của một trong 2 thị trường đều ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu toàn ngành điều.
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 10/2023 tăng 3,4% so với tháng trước, tuy nhiên lũy kế 10 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu thủy sản vẫn giảm đến 21%. Theo Tổng thư ký Vasep, thị trường có nhiều khó khăn nên xuất khẩu thủy sản năm nay có thể chỉ đạt khoảng 9 tỷ USD.
Ước tính 7 tháng đầu năm xuất khẩu cá tra đạt gần 1 tỷ USD, giảm 38% so với cùng kỳ năm trước. Các thị trường chính đang có tín hiệu tích cực, kỳ vọng xuất khẩu cá tra có thể đạt 1,77 tỷ USD, giảm 27,45% so với năm 2022, giảm 230 triệu so với mục tiêu 2 tỷ USD.
Khi thị trường liên tiếp nhận lệnh cấm hoặc hạn chế xuất khẩu gạo của một số nước, giá gạo Việt Nam đã có những bước “nhảy vọt” và đang có hiện tượng giá gạo trong nước cao hơn giá xuất khẩu. Do vậy, giá gạo tuy tăng cao nhưng không doanh nghiệp nào dám ký hợp đồng mới.
Năm 2023, Vinafruit đặt mục tiêu xuất khẩu rau quả đạt 4 tỷ USD, mới 7 tháng đầu năm đã đạt hơn 3,25 tỷ USD, tăng 68,8% so với cùng kỳ. Nếu giữ được nhịp độ như hiện nay, xuất khẩu rau quả không chỉ đạt 4 tỷ USD, thậm chí có thể chạm mốc 5 tỷ USD.
“Trong bối cảnh tình hình thị trường rất khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu tôm năm nay có thể không đạt 4 tỷ USD, nhưng chắc chắn sẽ có doanh số xấp xỉ mức này”, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) nói.
Sau gần 2 năm xuất khẩu hạt điều rơi vào tình trạng tăng trưởng âm, đến tháng 5/2023, xuất khẩu hạt điều bắt đầu khởi sắc, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu đều tăng trưởng khá, thông tin được đưa ra tại hội nghị sơ kết sản xuất, kinh doanh điều nửa đầu năm 2023.
Trong các loại nông sản, lúa gạo là mặt hàng nhạy cảm nhất với các tin tức liên quan. Tuần qua, Chính phủ Ấn Độ cho biết đang xem xét cấm xuất khẩu gạo và mới đây là lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng không phải basmati, khiến thị trường gạo xuất khẩu “nhảy múa”.
Nửa đầu năm 2023, xuất khẩu gạo đạt 4,234 triệu tấn, đạt 65,07% so với mục tiêu xuất khẩu 7 triệu tấn của Bộ Công Thương. Tuy xuất khẩu gạo đạt được nhiều thành công nhất định, nhưng lợi nhuận từ cây lúa của nông dân đang là mối quan tâm lớn của những người trong cuộc.
Nhu cầu từ thị trường Trung Quốc tăng đẩy giá tiêu trong nước đạt gần 80.000 đồng/kg, nay động lực từ thị trường này đã giảm cộng với việc EU quyết định không nhập khẩu các mặt hàng nông sản được trồng trên đất từ phá rừng đã tác động tiêu cực lên giá tiêu.
Indonesia sẽ mua 2 triệu tấn gạo trong năm nay, từ nay đến cuối năm Philippines mua thêm ít nhất 1,5 triệu tấn gạo, châu Phi và Trung Quốc cũng đang có nhu cầu lớn. Thị trường gạo 6 tháng cuối năm sẽ rất sôi động và “cuộc chơi” sẽ thuộc về doanh nghiệp có chân hàng lớn.
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 giảm 11,1% so với cùng kỳ, song vẫn có đến 7 sản phẩm đạt trên 1 tỷ USD như: Cà phê, cao su, gạo, rau quả, hạt điều, tôm, sản phẩm gỗ. Triển vọng thị trường các mặt này 6 tháng cuối năm sẽ thế nào?
6 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu được 4,2 triệu tấn gạo, kim ngạch đạt 2,3 tỷ USD, so với cùng kỳ tăng 22,2% về lượng và tăng 34,7% trị giá. Nhu cầu thị trường đang tốt, dự báo cả năm xuất khẩu gạo có thể đạt trên, dưới 8 triệu tấn, mang về 4 tỷ USD.