Quay về eMagazine
Ảnh minh họa.

Tạo điều kiện tối đa hỗ trợ thanh khoản nền kinh tế

Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ bám sát chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của Chính phủ, tiếp tục đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá, ổn định vĩ mô cũng như quản lý tốt thị trường ngoại hối, thị trường vàng.

Trong hoạt động tín dụng, NHNN sẽ tiếp tục tập trung vốn cho doanh nghiệp, đặc biệt hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn do COVID-19, hướng dòng tiền vào các lĩnh vực ưu tiên, mặt khác tạo điều kiện để khai thác tối đa các nguồn lực trong nền kinh tế...

Năm thứ hai liên tiếp nền kinh tế và hoạt động ngân hàng chịu tác động sâu sắc bởi đại dịch. Nhưng toàn hệ thống vẫn tiếp tục vững vàng; việc điều hành chính sách tiền tệ đạt những kết quả quan trọng; hoạt động các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn duy trì an toàn, hiệu quả và phát huy vai trò hỗ trợ nền kinh tế.

Hướng về năm 2022, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh định hướng bám sát chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của Chính phủ để tiếp tục triển khai thành công các nhiệm vụ của ngành.

Thưa Phó thống đốc, đâu là những kết quả lớn nhất mà ngành ngân hàng đã đạt được trong năm đầy sóng gió 2021?

Trong bối cảnh đại dịch kéo dài sang năm thứ hai liên tiếp với mức độ nguy hiểm và ảnh hưởng nặng nề hơn, để có thể góp phần đưa đất nước ta từng bước trở về trạng thái “bình thường mới”, tập trung phục hồi và phát triển kinh tế, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành ngân hàng đã thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Đồng thời, NHNN đã chủ động bám sát tình hình dịch bệnh, triển khai quyết liệt và mạnh mẽ hơn các giải pháp nhằm tập trung mọi nguồn lực tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, từng bước khôi phục và phát triển nền kinh tế.

Từ tháng 2/2020 đến nay, toàn ngành đã quyết liệt triển khai các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp thông qua giảm lãi suất cho vay, hoãn giãn các khoản nợ đến hạn mà chưa trả được do doanh nghiệp gặp khó khăn bởi COVID-19. Tất nhiên, các giải pháp trên được thực hiện trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp với điều kiện thực tế, theo đó, NHNN đã có tới 2 lần điều chỉnh Thông tư 01 trong chính sách này.

Việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp để hỗ trợ doanh nghiệp cũng là một trong những thách thức lớn mà tôi cho rằng, toàn ngành đã thực hiện khá tốt trong năm qua. Doanh nghiệp đi vay rõ ràng là mong muốn được vay với lãi suất thấp, nhưng người đi gửi tiền cũng mong muốn nhận được lãi suất tương đối một chút, để có lãi suất thực dương.

Theo đó, trong điều hành chính sách của mình, NHNN luôn cố gắng để hài hòa cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, đồng thời đảm bảo được tỷ suất lợi nhuận của nền kinh tế, đảm bảo được tất cả các cân đối vĩ mô trên góc độ điều hành chính sách tiền tệ cả về lãi suất, về lượng tiền cung ứng ra nền kinh tế…

Cụ thể, sau khi cắt giảm mạnh lãi suất điều hành 3 lần vào năm 2020 và là một trong các ngân hàng trung ương giảm lãi suất mạnh nhất khu vực, NHNN tiếp tục giữ lãi suất điều hành ở mức thấp năm 2021 nhằm tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận vốn từ NHNN với chi phí thấp để có cơ sở giảm lãi suất cho vay. Đồng thời chỉ đạo các TCTD tiết giảm tối đa các loại chi phí, điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chỉ tiêu lợi nhuận để tập trung giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới.

Thành công thứ ba là tiếp tục ổn định được thị trường ngoại tệ, tỷ giá tiếp tục giữ vững sự ổn định. Có được điều này là nhờ chính sách điều hành linh hoạt, NHNN sẵn sàng bán can thiệp ngoại tệ khi tâm lý thị trường diễn biến bất lợi, mua ngoại tệ khi nguồn cung dồi dào, đảm bảo thanh khoản thị trường thông suốt ngay cả khi thị trường quốc tế biến động mạnh, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, dự trữ ngoại hối nhà nước được củng cố.

Còn với quá trình tái cơ cấu hệ thống trong giai đoạn mới, nhất là trong điều kiện bất lợi hơn bởi COVID-19, thưa ông?

Sau 4 năm thực hiện Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2016-2020, công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD cũng đã đạt được những kết quả quan trọng, các mục tiêu tại Đề án về cơ bản đã đạt được, trừ một số mục tiêu bị ảnh hưởng do tác động của đại dịch COVID-19.

Quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng, năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành tiếp tục được củng cố, nâng cao. Phần lớn các ngân hàng đã hoàn thành các tiêu chuẩn Basel II, một số thành viên thậm chí đã đạt được một số chỉ tiêu của Basel III. Không chỉ các ngân hàng có vốn nhà nước mà một số ngân hàng tư nhân với quy mô trung bình cũng đã rất nhanh chóng thích ứng và dự kiến năm tới sẽ công bố đạt chuẩn Basel III.

Trong bối cảnh khó khăn như vậy việc điều hành chính sách tiền tệ, hệ thống ngân hàng vẫn đạt được những kết quả như trên. Tuy nhiên hẳn còn những hạn chế hoặc những điểm cần tiếp tục phải xử lý?

Nhìn lại năm qua, có lẽ một trong những chỉ tiêu quan trọng mà ngành đáng lẽ ra đã làm được nhưng cuối cùng lại lỡ hẹn chính là đưa tỷ lệ nợ xấu về ngưỡng an toàn dưới 3%. Dù vậy, nguyên nhân chính có phần do yếu tố khách quan khi tình hình dịch bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe doanh nghiệp.

Con số cập nhật mới nhất, nợ xấu nợ bảng đang ở mức 1,9%, tăng 0,21 điểm phần trăm so với cuối 2020. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống ở mức 3,79%. Trong trường hợp thận trọng hơn, nếu xét đến cả tác động của đại dịch, với các khoản nợ đang được cơ cấu lại theo chính sách hỗ trợ có nguy cơ nữa thì tỷ lệ ở mức 8,2%.

Con số này tất nhiên không ai mong muốn, tuy nhiên đây là điều bất khả kháng khi rất nhiều doanh nghiệp lâm vào khó khăn do đại dịch. Còn nhớ giai đoạn 2010-2012, nền kinh tế tăng nóng đã khiến tỷ lệ nợ xấu lên tới 12-13%. Chúng ta sau đó đã phải phấn đấu rất nhiều, sau hơn chục năm, với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị tưởng như đã đưa được nợ xấu về mức dưới 3% thì đại dịch lại ập đến.

Như ông đề cập, nợ xấu dự kiến sẽ là một trong những khó khăn tiếp tục nổi lên thời gian tới. Vậy NHNN có những chỉ đạo, giải pháp gì để hỗ trợ các ngân hàng giảm áp lực và xử lý khó khăn này?

Đúng là nợ xấu sẽ tăng lên, năm 2022 xác định là một thử thách lớn. Chính phủ đã chỉ đạo và ngành ngân hàng cũng đã có những giải pháp. Trước hết, phải đảm bảo an toàn tài chính cho các TCTD. Để xử lý nợ xấu cũ, đề án tái cơ cấu và xử lý nợ xấu đã mang đến những kết quả rất tích cực, nếu như không có dịch thì chúng ta cũng đã hoàn thành rất tích cực những chỉ tiêu đề ra xử lý khoản nợ xấu trước đây.

Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, do yếu tố khách quan, quy mô nợ xấu trong năm 2022 và những năm tới là khá lớn, chúng ta cần những giải pháp ứng xử thích hợp, trên cơ sở vừa xử lý nợ xấu phát sinh do COVID-19, vừa ngăn chặn nợ xấu mới phát sinh. Theo đó, chúng ta cũng phải có những biện pháp cụ thể cả về hành lang pháp lý và thẩm quyền xử lý. Tôi cho rằng rất cần thiết phải trình Quốc hội, Chính phủ để nâng Nghị quyết 42 thành Luật Xử lý nợ xấu.

Còn với người dân và doanh nghiệp vay vốn, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục có hướng hỗ trợ thế nào trong khó khăn chung nói trên, cũng như chính sách điều hành nói chung, thưa ông?

Trên cơ sở kết quả thực hiện năm 2021, năm 2022, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, tạo điều kiện một cách tối đa cho việc hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế. NHNN sẽ bám sát vào chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của Chính phủ, trên cơ sở đó sẽ tiếp tục đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá, ổn định vĩ mô cũng như quản lý tốt thị trường ngoại hối, thị trường vàng.

Trong hoạt động tín dụng, NHNN sẽ tiếp tục tập trung vốn cho doanh nghiệp, đặc biệt hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn do COVID-19, hướng dòng tiền vào các lĩnh vực ưu tiên, mặt khác, tạo điều kiện để khai thác tối đa các nguồn lực trong nền kinh tế, góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình tín dụng ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ.

Năm 2022, định hướng tín dụng tăng khoảng 14%. Dù vậy, 14% chỉ là con số đặt ra cho mục tiêu điều hành, con số tăng trưởng thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn tùy thuộc vào nhu cầu vốn của nền kinh tế cũng như phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.

Xin cảm ơn Phó thống đốc!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Chat với BizLIVE