Rủi ro hiện hữu với các doanh nghiệp sử dụng nợ vay lớn bằng USD

Theo VNDirect, biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái và lãi suất đồng USD tăng cao làm gia tăng chi phí với doanh nghiệp có cơ cấu nợ bằng đồng USD lớn. Tuy vậy, mức độ ảnh hưởng có sự khác biệt giữa hình thức trả lãi, kỳ hạn khoản vay.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Tại cuộc họp mới đây, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã quyết định tăng lãi suất điều hành thêm 75 điểm cơ bản lên biên độ mới từ 3% đến 3,25%.

Fed cũng đưa ra quan điểm có phần “diều hâu” hơn về việc thắt chặt chính sách tiền tệ, theo đó các quan chức Fed dự báo lãi suất điều hành có thể tăng lên mức 4,25-4,5% vào cuối năm 2022 (tương đồng với kỳ vọng của thị trường trước khi cuộc họp diễn ra) và 4,5-4,75% vào cuối năm 2023 (cao hơn khoảng 25 điểm cơ bản so với kỳ vọng của thị trường trước khi cuộc họp diễn ra).

VND có thể mất giá 3,5-4% so với đồng USD trong năm 2022

Trong báo cáo vừa cập nhật, Công ty Chứng khoán VNDirect cho rằng tỷ giá hối đoái của Việt Nam sẽ tiếp tục chịu áp lực trong những tháng cuối năm 2022. Nguyên nhân do đồng USD neo ở mức cao trong bối cảnh Fed duy trì lộ trình tăng lãi suất.

Tại thời điểm ngày 21/9, chỉ số đô la đạt 110,6 điểm, tăng gần 16% so với cùng kỳ năm ngoái. USD mạnh hơn khiến tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng đã tăng khoảng 3,8% lên 23.688 đồng - mức cao nhất lịch sử. Trong khi đó, tỷ giá trung tâm do NHNN ấn định cho cặp tỷ giá USD/VND ở mức 23.316, tăng 0,7% so với cuối năm 2021 và tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng khoảng 2,7% kể từ đầu năm 2022.

Tuy nhiên, so với các đồng tiền trong khu vực, VNDirect cho rằng Việt Nam Đồng vẫn là một trong những đồng tiền ổn định nhất. Kể từ đầu năm 2022, hầu hết các loại tiền tệ trong khu vực đã giảm hơn 5% so với USD (Peso Philippines giảm 12,6% so với USD, Baht Thái Lan và Nhân dân tệ Trung Quốc đều giảm 11,6% so với USD, Ringgit Malaysia giảm 9,7% và Rupiah Indonesia giảm 5,4% so với USD).

Dù tỷ giá hối đoái sẽ tiếp tục chịu áp lực trong những tháng cuối năm song VNDirect vẫn nhận thấy những yếu tố hỗ trợ tỷ giá, bao gồm dòng vốn FDI mạnh hơn, thặng dư thương mại cải thiện (dự báo đạt khoảng 8,9 tỷ USD trong năm 2022), thặng dư cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối đạt ngưỡng an toàn (tương đương 3,3 tháng nhập khẩu). Tựu chung, VNDirect dự báo, đồng VND có thể mất giá khoảng 3,5-4% so với đồng USD trong năm 2022.

Sang tới năm 2023, nhóm phân tích kỳ vọng áp lực lên tỷ giá hối đoái của Việt Nam sẽ hạ nhiệt đáng kể và dự báo VND sẽ tăng giá so với USD trong năm 2023 do Fed chuyển từ "thắt chặt chính sách tiền tệ" sang "bình thường hóa chính sách" trong năm tới; lãi suất USD giảm nhẹ trong nửa cuối năm 2023; lãi suất VND duy trì xu hướng tăng trong năm 2023 và bộ đệm tốt từ thặng dư thương mại và cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối cải thiện trong năm 2023.

Rủi ro hiện hữu với các doanh nghiệp vay nhiều USD

Theo nhận định của VNDirect, biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái và lãi suất đồng USD tăng cao làm gia tăng chi phí đối với những doanh nghiệp có cơ cấu nợ lớn bằng đồng USD. Tuy vậy, mức độ ảnh hưởng sẽ có sự khác biệt giữa hình thức trả lãi (lãi suất cố định hay lãi suất thả nổi) và kỳ hạn khoản vay (ngắn hạn hay dài hạn).

Đối với hình thức trả lãi, nhóm phân tích cho rằng những doanh nghiệp có khoản vay bằng đồng USD dù với lãi vay cố định hay thả nổi đều phải chịu áp lực tăng chi phí lãi vay và lỗ tỷ giá vì ảnh hưởng bất lợi của biến động tỷ giá và lãi vay đồng USD.

Trong đó, những doanh nghiệp có khoản vay USD với lãi suất cố định sẽ chịu áp lực gia tăng chi phí lãi vay và lỗ tỷ giá khi đánh lại giá trị khoản vay do tác động của tỷ giá. Đồng USD mạnh lên sẽ kéo theo chi phí lãi vay lẫn giá trị nợ gốc đều sẽ tăng lên khi quy ra tiền VND.

Trong khi, những doanh nghiệp sử dụng khoản vay USD với lãi suất thả nổi sẽ chịu áp lực lớn hơn những khoản vay có lãi suất cố định. Nguyên do là vì ngoài chịu tác động về tỷ giá lên chi phí lãi và nợ gốc, khoản vay thả nổi sẽ còn chịu thêm áp lực tăng chi phí lãi vay khi lãi suất khoản vay bằng đồng USD tăng lên do FED thắt chặt chính sách tiền tệ.

Đối với thời hạn trả lãi, VNDirect cho rằng những doanh nghiệp có tỷ trọng nợ vay ngắn hạn lớn sẽ bị tác động tiêu cực hơn những doanh nghiệp có tỷ trọng nợ vay dài hạn lớn.

Nhất là khi Fed với quan điểm “diều hâu” hơn về thắt chặt chính sách tiền tệ, sẽ gây ra áp lực lớn lên tỷ giá hối đoái, khiến cho giá trị các khoản vay ngắn hạn gia tăng về nợ gốc, gây ra những rủi ro về dòng tiền khi doanh nghiệp phải xoay sở để trả nợ gốc và chi phí lãi vay.

Hơn nữa, khi khoản nợ vay ngắn hạn này đáo hạn, khả năng cao doanh nghiệp sẽ phải vay mới với lãi suất cao hơn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó cũng làm gia tăng chi phí lãi vay.

Ngược lại, những doanh nghiệp có tỷ trọng cao khoản vay USD dài hạn sẽ chưa phải đối diện với việc đáo hạn nợ gốc. Tuy nhiên, biến động bất lợi của tỷ giá cũng sẽ khiến cho các doanh nghiệp này phải đánh giá lại khoản vay và ghi nhận lỗ kế toán trên báo cáo kết quả kinh doanh, cũng như gia tăng chi phí lãi vay.

Trong dài hạn, VNDirect cho rằng những khoản nợ vay USD dài hạn sẽ bớt rủi ro hơn do kỳ vọng áp lực tỷ giá có thể hạ nhiệt và đồng VND sẽ tăng giá so với USD trong năm 2023.

Theo thống kê của VNDirect, hiện nay có khá nhiều doanh nghiệp niêm yết có cơ cấu nợ bằng USD lớn, trong đó Vingroup (VIC) đang có tổng dư nợ bằng USD lên tới 65.559 tỷ đồng trên tổng số gần 166.600 tỷ đồng dư nợ, tương ứng chiếm 39,4%.

Đây là những khoản nợ với lãi suất cố định 4%/năm cho khoản vay ngắn hạn; lãi suất thả nổi từ 0,91%/năm đến 5,53%/năm đối với khoản vay có tài sản đảm bảo và không có hợp đồng hoán đổi lãi suất; và lãi suất cố định theo hợp đồng hoán đổi từ 4,1%-9,15%/năm cho các khoản vay hoán đổi lãi suất. Tuy nhiên, VIC cũng đang có lượng tiền ròng rất lớn, lên tới hơn 108.500 tỷ đồng.

Ngoài ra, PGV, HVN, NVL, GE2 cũng đang có tổng dư nợ bằng đồng USD lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Cụ thể, PGV có tổng dư nợ bằng USD là 36.868 tỷ đồng (chiếm gần 87% tổng dư nợ). HVN có tổng dư nợ bằng USD là 21.815 tỷ (chiếm 66,3% tổng dư nợ). NVL có tổng dư nợ bằng USD là 14.821 tỷ (chiếm 21,6% tổng dư nợ); GE2 có 12.669 tỷ đồng dư nợ bằng USD(chiếm 35,2% tổng dư nợ).

Thậm chí, một số doanh nghiệp như HND, PVD còn có 100% dư nợ đều bằng đồng USD. Trong đó, khoản dư nợ của PVD là hơn 3.900 tỷ đồng (gồm 77% tổng nợ vay USD theo LIBOR 3 tháng + 3% (thả nổi); 13% tổng nợ vay USD theo LIBOR 3 tháng + 3,8% (tối thiếu 4,8%/năm) (thả nổi) và 10% tổng nợ vay USD theo LIBOR 6 tháng + biên (thả nổi)). Còn HND có 1.549 tỷ đồng dư nợ bằng USD với lãi suất vay cố định 6,07%/năm.

Đọc tiếp

Ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch Tập đoàn Vingroup

Ông Phạm Nhật Vượng: “Nghi ngờ dòng tiền và năng lực của Vingroup là không có cơ sở, sẽ tài trợ thêm 1 tỷ USD cho VinFast”

“Nói thị trường nghi ngờ dòng tiền và năng lực của Vingroup là không có cơ sở, đây là tin đồn và dụng ý khác nhau. Đến giờ này chúng tôi chưa bao giờ chậm ngân hàng một đồng lãi nào, chưa nói đến gốc, các kế hoạch tài chính được vạch ra và thực hiện nghiêm túc”, ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch Vingroup nói.

Nhịp cầu doanh nghiệp

Đất phân lô lại "nóng"

Đất phân lô lại "nóng"

Nhiều khu đất phân lô bán nền có giao dịch đột biến trong 3 tháng đầu năm 2024, tuy vậy diễn biến giao dịch giữa các khu vực không đồng đều.

Chat với BizLIVE