Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vừa ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 về tăng giờ làm thêm trong bối cảnh phục hồi kinh tế.
Theo đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ trì, phối hợp Liên đoàn lao động cấp tỉnh và các cơ quan liên quan phổ biến, hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 17 trên địa bàn quản lý.
Trong đó lưu ý, người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm trong trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động.
Trừ các trường hợp: người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi; người lao động là người khuyết tật; người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Các ngành nghề mà người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 1 năm là nghề sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản; sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước.
Ngoài ra, trong trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời; hoặc trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, người sử dụng lao động cũng được tăng giờ làm thêm không quá 300 giờ trong 1 năm.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng cho biết, tất cả trường hợp được làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm đều được làm thêm từ trên 40 giờ đến 60 giờ trong 1 tháng kể từ ngày 1/4/2022.
Đồng thời, khi tổ chức thực hiện quy định về số giờ làm thêm theo Nghị quyết 17 vẫn phải tuân thủ đầy đủ các quy định khác về làm thêm giờ tại Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn Bộ luật Lao động (quy định về giới hạn số giờ làm thêm trong ngày; tiền lương phải trả khi làm thêm giờ; các nội dung về sự đồng ý của người lao động tham gia làm thêm; thông báo khi tổ chức làm thêm trên 200 giờ trong 1 năm...).
Khi tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong 1 năm, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Đặc biệt, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố cần tăng cường thanh tra, kiểm tra việc làm thêm giờ trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Các quy định của Nghị quyết 17 được thực hiện cho đến hết ngày 31/12/2022, trừ trường hợp Quốc hội quyết định kéo dài thời gian thực hiện.
Trước đó, tại phiên họp ngày 23/3, với 100% thành viên tán thành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua nghị quyết về thời giờ làm thêm trong 1 tháng và trong 1 năm của người lao động. Nghị quyết có hiệu lực bắt đầu từ 1/4/2022.
Theo Nghị quyết, về số giờ làm thêm trong 1 năm, trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 1 năm.
Về số giờ làm thêm trong 1 tháng, trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.